Friday, July 25, 2014

Không uống rượu bia 1 năm, người Việt thừa mua 2 tàu ngầm Kilo


(Soha.vn) - “Nếu chiếu theo số liệu thống kê của tổ chức y tế thế giới WHO, Việt Nam là nước có mức độ sử dụng các chất uống có cồn ở mức trung bình thấp” – ông Việt lưu ý.

Mới đây, thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc người Việt chi 3 tỷ USD/năm cho bia rượu khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên.
Là người tham gia khởi thảo Chính sách quốc gia về phòng chống lạm dụng rượu bia, phó viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế) Vũ Thị Minh Hạnh cũng tỏ ra rất lo ngại trước thực trạng lạm dụng bia rượu ở Việt Nam.
Ông Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Viện Quản lý Việt Nam đã đưa ra một con số ước tính để thấy rằng Việt Nam đang quá lãng phí cho việc uống bia, rượu. Ông phân tích: Dân Việt Nam uống 3 tỷ USD bia rượu một năm trong khi đó 1 tàu Kilo có giá 350 triệu USD, 1 máy bay Sukhoi 30 có giá 30 - 45 triệu USD, tàu hộ vệ tên lửa Gepard 350 triệu USD. Như vậy, nếu nhịn uống bia trong năm 2014, dân việt nam có thể với 3 tỷ USD mua thêm 02 con Kilo giá 1 tỷ USD, mua thêm 1 cặp Gepard 700 triệu USD, mua thêm một biên đội Sukhoi 12 chiếc với giá 540 triệu USD. Tổng chi phí chỉ mất khoảng 2.2 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong Hội nghị tổng kết công tác năm 2013 và triển khai nhiệm vụ năm 2014 diễn ra vào ngày 28/2, Hiệp hội Bia rượu nước giải khát Việt Nam (VBA) cũng như nhiều hãng bia trong nước đã phản bác trước thông tin này.
“Với 3 tỷ lít bia được tiêu thụ, người ta cho rằng bỏ ra 3 tỷ đô la chỉ dành cho việc…uống bia là quá nhiều, những nhà khoa học nói phục vụ tiêu xài cho xã hội quá phí phạm nhưng tôi nghĩ thông tin này chưa chuẩn. Bởi có trên 50% là nộp ngân sách, còn 50% giải quyết vấn đề cho xã hội, cung ứng cho xã hội, dịch vụ cho xã hội. Hàng ngày, ở Mỹ có bao nhiêu người thất nghiệp, ở Việt Nam, ngành bia giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động” - ông Nguyễn Văn Việt, chủ tịch VBA phân trần về mức độ tăng trưởng bia, rượu của Việt Nam trong năm vừa qua.
Cụ thể, theo số liệu chính thức của tổng cục Thống kê, đóng góp ngân sách của ngành bia rượu nước giải khát năm 2013 đạt trên 1 tỷ đô la và tốc độ tăng trưởng của ngành Bia nói chung cũng đang trong xu thế giảm dần. Sản lượng bia sản xuất năm 2011/2010 tăng 8,5%, 2012/2011 tăng 5,73% và năm 2013/2012 là 2,47%.
Về kết quả sản xuất kinh doanh của ngành, ông Việt cho biết vẫn đảm bảo mức tăng trưởng so với năm 2012. Cụ thể, sản lượng sản xuất bia đạt 2,9 tỷ lít, tăng 2,47%; sản lượng tiêu thụ trên 3 tỷ lít, tăng 11,85%. Nước giải khát các loại sản xuất đạt gần 4,5 tỷ lít, tăng 5,59%, tiêu thụ ở mức tương đương, tăng 3,05%. Rượu sản xuất công nghiệp đạt 66,8 triệu lít, tăng 4,4%, tiêu thụ 67,9 triệu lít, tăng 6,9%.
Không uống rượu bia 1 năm, người Việt thừa mua 2 tàu ngầm Kilo
Ông Việt nhấn mạnh, “hãy tôn trọng số liệu thống kê, thay vì các thông tin ngoài luồng!”. Bởi theo thống kê của Tổng cục thống kê, sản lượng bia tiêu thụ năm 2011/2010 tăng trưởng 12,6%, năm 2012/2011 tăng trưởng chững lại 1,5%, năm 2013 tăng trưởng 10,3%. Mức tăng nói chung không đều đặn, nhưng ở mức tương đối cao, so với mức tăng trưởng sản xuất.
“Nếu chiếu theo số liệu thống kê của tổ chức y tế thế giới WHO, Việt Nam là nước có mức độ sử dụng các chất uống có cồn ở mức trung bình thấp” – ông Việt lưu ý.
Ông Phan Đăng Tuất - Chủ tịch HĐQT công ty bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) cũng đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng: “Những thông tin đăng tải thời gian vừa qua về con số 3 tỷ USD/năm là chưa chính xác về ngành rượu, bia của Việt Nam, thậm chí, có người còn nói: lượng tiêu thụ rượu, bia của Việt Nam lớn nhất Châu Á. Điều này hoàn toàn không đúng”.
Ông giải thích thêm: “Chúng tôi đang thu thập tất cả thông tin chính thức để chứng minh rằng lượng tiêu thụ bia, rượu và đồ uống có cồn nói chung ở Việt Nam rất thấp, dưới mức trung bình khá. Nếu tính trung bình trên đầu người, ở Việt Nam, độ cồn tuyệt đối mà một người dùng là 2 lít cồn/người/năm trong khi đó, 4 lít mới là mức tiêu thụ trung bình của người dân trên thế giới.
“Như vậy, ở Việt Nam, nhiều nơi, người dân còn không biết đến hình dạng lon bia như thế nào. Nhất là khi bạn về các tỉnh lẻ, nông thôn, nhiều người dân còn không biết mở nắp lon bia như thế nào, họ chỉ biết loại rượu lá chuối. Ngay ở Đông Nam Á, nhiều nước tiêu thụ rượu, bia còn lớn hơn nhiều” – ông Tuất nhấn mạnh.
 http://soha.vn/kinh-doanh/khong-uong-ruou-bia-1-nam-nguoi-viet-thua-mua-2-tau-ngam-kilo-20140228135422149.htm
 Phương Nhi - theo Trí Thức Trẻ | 01/03/2014

Monday, July 21, 2014

VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
1.-   HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.]   Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
2.-   AI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE ?
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.
Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:
Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3.- BẮC VIỆT NAM ĐÒI HỎI ĐIỀU KHÔNG CÓ
Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:
Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
4.- BẮC VIỆT NAM BỊA ĐẶT LÝ DO ĐỂ TẤN CÔNG MIỀN NAM
Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.
Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng.
Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
KẾT LUẬN
Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước.
Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.
TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 20-7-2014)
http://anhbasam.wordpress.com/2014/07/21/2783-viec-thi-hanh-hiep-dinh-geneve/#more-136133

Tuesday, July 15, 2014

TIN BÃO GẦN BIỂN ĐÔNG

Hồi 19 giờ ngày 15/7, vị trí tâm bão Rammasun ở vào khoảng 13,4 độ Vĩ Bắc; 123,3 độ Kinh Đông, trên khu vực miền Trung Philippin. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 14 (tức là từ 150 đến 166 km một giờ), giật cấp 16, cấp 17.
Dự báo trong 24 giờ tới bão di chuyển chủ yếu theo hướng Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 20km. Đến 19 giờ ngày 16/7, vị trí tâm bão ở vào khoảng 15,5 độ Vĩ Bắc; 119,1độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 780km về phía Đông Đông Nam. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 12, cấp 13 (tức là từ 118 đến 149 km một giờ), giật cấp 15, cấp 16.
Trong khoảng 24 đến 48 giờ tiếp theo, bão di chuyển theo hướng giữa Tây Tây Bắc và Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 20 - 25km. Đến 19 giờ ngày 17/7, vị trí tâm bão ở vào khoảng 17,6 độ Vĩ Bắc; 115,3 độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 350km về phía Đông Đông Bắc. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 12 (tức là từ 118 đến 133 km một giờ), giật cấp 14, cấp 15.
Trong khoảng 48 đến 72 giờ tiếp theo, bão tiếp tục di chuyển theo hướng giữa Tây Tây Bắc và Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 20km.
Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão, từ gần sáng mai (16/7), vùng biển phía Đông Biển Đông, có gió mạnh dần lên cấp 7, cấp 8, sau tăng lên cấp 9, cấp 10, vùng gần tâm bão cấp 11, cấp 12, giật cấp 13, cấp 14. Biển động dữ dội.
Đây là một cơn bão mạnh, di chuyển nhanh và có diễn biến phức tạp. Cần chú ý theo dõi các bản tin tiếp theo.
Bản tin tiếp theo được phát vào lúc 02h30 ngày 16/7.
Tin phát lúc: 21h00

Chùm ảnh đường đi và vị trí cơn bão

Wednesday, July 9, 2014

Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy

http://anhbasam.wordpress.com/2014/07/09/2745-con-cay-dang-hon-ca-cau-chuyen-my-chau-trong-thuy/#more-135273
Nguyễn Trung
08-07-2014
Chẳng lẽ đốn đời đến mức phải nói lời cảm ơn với cái giàn khoan HD 981 hả trời đất!? Tôi cảm thấy xấu hổ trong lòng về ý nghĩ này, và quả thực  trong bụng có lúc tôi đã nghĩ như vậy!  
Sự thật là không ít các bạn đồng niên của tôi cũng có cách nghĩ như thế trước một thực tế đau lòng: Hàng chục năm nay, chí ít là từ khi anh Trần Quang Cơ trong cuốn Hồi ức và suy nghĩ  (2001) của mình đã giấy trắng mực đen cảnh báo rành rành trước cả nước về mối họa Thành Đô. Nhưng tất cả cứ như nước đổ đầu vịt! Các lời cảnh báo khác qua mấy khóa đại hội đảng cũng thế…
 Thậm chí mãi cho đến ngày 02-05-2014 trở về trước, nghĩa là cho đến khi cái giàn khoan HD 981 cắm sâu vào vùng biển của ta, hễ cứ ai mở miệng phê phán Trung Quốc ăn hiếp nước ta nhiều chuyện, hay biểu tình lên tiếng đòi “NO U” (nói Không với đường lưỡi bò!)..,  là lập tức bị gán cho cái tội phá đại cục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để lật đổ chế độ!.. Đã có những bắt bớ và tù đầy nhằm đàn áp những chuyện này. Thậm chí ngay cái tên gọi Trung Quốc trong không biết bao nhiêu hành động phải gọi là tội ác ức hiếp nước ta dù là trên bộ hay dưới biển, phía ta cũng phải lờ đi, ngậm bồ hòn làm ngọt, hoặc vì vì lý do nào đấy nếu buộc phải nhắc đến thì cũng phải gọi trẹo đi là tầu lạ, kẻ lạ… 
Nhưng đúng là từ sau cái ngày 02-05-2014 câu chuyện đã bắt đầu khác. Vâng, mới chỉ bắt đầu khác thôi. 
Bây giờ mà có ai cả gan công khai bảo vệ 4 tốt và 16 chữ, chắc chắn sẽ được cả nước ném đá khỏi phải đem đi chôn luôn!  
Dù sao, toàn bộ câu chuyện nói trên mới chỉ là chuyện nổ bùng của tình cảm – một tình cảm bị quyền lực và tủi nhục lâu nay đè nén đến ê chề, nhìn đất nước hàng ngày oằn lên dưới sự lũng đoạn mọi mặt của Trung Quốc mà không làm gì được! Nói đúng hơn là: Không được làm gì! 
Bây giờ xin cùng nhau giữ cái đầu lạnh một chút, giữ trái tim ấm một chút với đất nước, để cả nước cùng nhau nhìn nhận lại tất cả. 
Khi được tin báo về nước là hội nghị Thành Đô đã kết thúc, bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thốt lên: Một thời Bắc thuộc lần thứ hai bắt đầu!  
Câu chuyện giàn khoan HD 981 hôm nay bắt đầu từ đấy. 
Thỏa thuận Thành Đô 1990 ra đời trong hoàn cảnh (1) Việt Nam đã thấm đòn cuộc chiến tranh 17-02-1979 của Trung Quốc (chỉ thực sự kết thúc 1989) và chiến tranh Campuchia (do Trung Quốc cài dựng lên để lừa ta vào), (2) Trung Quốc vừa mới đánh chiếm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa năm 1988, và (3) hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa (các nước Liên Xô – Đông Âu cũ) bắt đầu sụp đổ từ 1989. Nỗi lo sự sụp đổ này có thể xóa mất chế độ chính trị ở nước ta là một trong những tác nhân quyết định dẫn tới bước đi nói trên của lãnh đạo phía Việt Nam hồi ấy, chưa kể đến những nguyên nhân khác cá nhân.  
Tìm kiếm liên minh ý thức hệ ở Thành Đô trong bối cảnh như vậy chính là tìm kiếm liên minh với kẻ vừa mới thẳng tay làm thịt mình mấy trận liền. (Xin đừng quên: Trung Quốc lúc ấy còn kênh kiệu: Nếu Việt Nam có chịu đến Thành Đô thì cũng chỉ có liên minh thôi, chứ không thể có đồng minh, chỉ là đồng chí chứ không thể là đồng minh!..) 
Không thể nói lãnh đạo phía Việt Nam thời ấy không đếm xỉa đến thực trạng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc như đã nêu trong Sách Trắng 1979[1]. Nhưng quyết định Thành Đô là sự lựa chọn của lãnh đạo phía Việt Nam vào thời điểm và hoàn cảnh lịch sử của thế giới cũng như của chính nước ta lúc bấy giờ, với niềm tin sẽ phục hồi lại được quan hệ hữu nghị giữa hai nước, sẽ có hòa bình, và tạo ra được liên minh ý thức hệ, để từ đó có thể bảo vệ chế độ và giữ nước. Những điều cốt lõi này tạo nên quyết định lựa chọn liên mình ý thức hệ.  
Hơn nữa, hệ thống thế giới XHCN không còn nữa, Việt Nam phải đi với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội – rất nhiều lần lãnh đạo đã giảng giải như vậy trong nội bộ và trong nhân dân. 
Chặng đường một phần tư thế kỷ từ Thành Đô đến giàn khoan HD 981, là  chặng đường Việt Nam nhận được một nền hòa bình phải trả giá đắt bằng nhiều nhân nhượng hoặc thua thiệt đau lòng – trong những vấn đề biên giới trên bộ và trên biển, trong quan hệ kinh tế, trong nhiều vấn đề chính trị khác, và lòng tự trọng dân tộc bị tổn thương nặng nề…  
Trong những năm gần đây đã có nhiều học giả và cơ quan nghiên cứu trong nước trong nước đưa ra nhiều dữ liệu, sự kiện và những lý lẽ xác đáng cho thấy kinh tế nước ta lệ thuộc nghiêm trọng và trên thực tế gần như trở thành một nền kinh tế phụ trợ cho Trung Quốc: Cung cấp như vơ vét mọi tài nguyên khoáng sản ta có cho Trung Quốc; xuất siêu của ta sang thị trường toàn thế giới không đủ bù nhập siêu của ta từ Trung Quốc; Việt Nam trở thành một thị trường lý tưởng tiêu thụ hàng hóa rẻ, độc hại và chất lượng xấu của Trung Quốc; trong hơn một thập kỷ nay khoảng 2/3 công trình kinh tế lớn xây mới trong cả nước rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc với chất lượng công nghệ thấp, đắt, ô nhiễm môi trường nặng nề, bóp chết khả năng nội địa hóa của nước ta…   
Thực tế một phần tư thế kỷ vừa qua cũng cho thấy nội tình đất nước bị quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn và chia rẽ ngày càng trầm trọng, con đường phát triển của đất nước bị kìm hãm, nhiều cơ hội phát triển của đất nước bị cướp mất, chịu nhẫn nhục ngậm bồ hòn làm ngọt nhiều thứ… Liên minh ý thức hệ dù mang tên 4 tốt và 16 chữ  không thể ngăn cản biết bao nhiêu việc làm sai trái năm này qua năm khác của Trung Quốc trên Biển Đông. Về toàn cục, nước ta chỉ gặt hái được một thực tế: ta càng nhân nhượng Trung Quốc càng lấn tới. Và hôm nay nước ta lâm vào tình trạng bị cô lập trước nguy cơ bị lấn chiếm tiếp, bị bao vây và xâm lược từ phía Trung Quốc chưa từng có kể từ 30-04-1975.  
Nỗi đau còn nhức nhối hơn ở chỗ Trung Quốc đã làm được như vậy đối với nước ta giữa lúc nước ta đã hội nhập toàn diện vào quá trình toàn cầu hóa, sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường quan trọng trên thế giới, hầu hết các quốc gia quan trọng trên thế giới là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện của nước ta. Nói cách khác: Lợi dụng cái liên minh ý thức hệ này, quyền lực mềm Trung Quốc đã thành công trong việc vô hiệu hóa đáng kể những nỗ lực hội nhập quốc tế của Việt Nam để vươn ra bên ngoài, đã giam hãm thành công Việt Nam trong vòng kiềm tỏa của Trung Quốc mà đến hôm nay Việt Nam vẫn chưa có cách gì thoát ra.  
Còn một hiện tượng nữa cần lưu ý. Về mặt nào đó, phẩm chất chính trị của chế độ ở thời điểm Việt Nam bước vào Hội nghị Thành Đô so với hôm nay có sự khác biệt nghiêm trọng: Hôm nay là sự tha hóa đến mức nguy hiểm, mà chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa nhận là đang đe dọa sự tồn vong của đảng và của chế độ. Ngoài quá trình tha hóa tự thân của chế độ toàn trị một đảng, phải nói quyền lực mềm Trung Quốc chủ yếu bằng sử dụng những thủ đoạn tham nhũng và hủ hóa đã góp phần quan trọng vào làm sâu sắc thêm quá trình tha hóa này của chế độ chính trị ở nước ta. Mười ngày đầu (02-05 đến 11-05-2014) sau khi xảy ra sự kiện giàn khoan HD 981 là mười ngày câm lặng, bất động không biết nên phản ứng như thế nào, mọi nỗ lực “đường dây nóng” đều vô ích hoặc bị cự tuyệt, càng lúng túng đến mức như nhắm mắt làm ngơ giữa lúc đất nước đang có bao nhiêu hội họp quan trọng… Đó là mười ngày phơi bầy ra sự ươn hèn của hệ thống chính trị, làm tổn thương nghiêm trọng quốc thể.  
Đến đây có thể rút ra kết luận: Tạo ra liên minh ý thức hệ ở Thành Đô là để mong có hòa bình, bảo vệ được chế độ và giữ được nước, nhưng hôm nay gặt hái được: kinh tế lệ thuộc, độc lập chủ quyền quốc gia tiếp tục bị uy hiếp, chế độ chính trị bị Trung Quốc lũng đoạn sâu thêm, đảng cũng bị Trung Quốc trói buộc cả về tư duy và về hành động vào liên minh này (nên đọc thêm “4 không được” do Trung Quốc đưa ra trước khi Dương Khiết Trì đến Hà Nội 16-06-2014), con đường phát triển của đất nước bị chặn đứng.  
Liên minh như thế đúng là mất cả chì lẫn chài.  
Toàn bộ những diễn biến của quan hệ Việt – Trung tác động vào Việt Nam trong một phần tư thế kỷ vừa qua thừa nhận: Việt Nam về nhiều mặt và trên thực tế trở thành một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc[2].
*
Trên đây không chỉ là câu chuyện của thất bại tìm kiếm liên minh ý thức hệ. Nó còn là câu chuyện sụp đổ ý thức hệ của chính bản thân ĐCSVN trên 2 phương diện:  
(1) Trung Quốc có một ý thức hệ riêng của mình và tùy từng thời kỳ mang những tên gọi khác nhau. Hiện tại tên gọi đó là CNXH đặc sắc Trung QuốcGiấc mộng Trung Hoa. Nhưng trước sau vẫn chỉ là cái gốc bành trướng Đại Hán. Thật ra trước khi có Thành Đô, Việt Nam lần đầu tiên được hưởng quả đắng của ý thức hệ gốc này là năm 1956, khi Trung Quốc lợi dụng tình hình nhá nhem chiếm một phần Hoàng Sa, giữa lúc quan hệ hai nước đẹp như trong thơ: Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông…  Thứ ý thức hệ bành trướng Đại Hán này đâu có thèm liên minh, nó chỉ ban tặng cho phía ta 4 tốt và 16 chữ, thế thôi. Đấy chính là thực chất của cái gọi là “liên minh nhưng không phải là đồng minh, đồng chí chứ không đồng minh…” mà Trung Quốc đã giao hẹn trước với phía ta khi chấp nhận ngồi với ta ở Thành Đô.
(2) Ý thức hệ của ĐCSVN đã thất bại trong việc dẫn dắt con đường phát triển của Việt Nam trong 4 thập kỷ đầu tiên xây dựng và bảo vệ đất nước kể từ sau 30-04-1975[3]. Đất nước đang đứng trước cuộc khủng hoảng toàn diện và đòi hỏi phải tìm một con đường khác để đi vào một thời kỳ phát triển khác – một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Thế nhưng hiện nay ĐCSVN với tư cách là người nắm quyền hành tuyệt đối đang nợ đất nước câu trả lời, nói thẳng ra là không đủ trí tuệ, phẩm chất và bản lĩnh để tìm được câu trả lời. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trước sau đã nhiều lần thay mặt đảng trả lời trước toàn đảng và toàn dân rồi: Phải kiên định con đường của chủ nghĩa xã hội. Câu trả lời này chỉ nói lên đến hôm nay ĐCSVN vẫn chưa có câu trả lời. 
Thực tế chặng đường Thành Đô – giàn khoan HD 981 cho thấy một phần tư thế kỷ vừa qua phía ta đã chịu bịt tai, nhắm mắt, ngậm miệng, tự trói chân tay…, chịu  biết bao nhiêu thua thiệt và nhân nhượng; nhiều cái Trung Quốc làm sai không dám cãi; nhiều cái lợi ích quốc gia đòi hỏi nhưng không dám đi trước, không dám làm khác hay làm trái Trung Quốc, cả trong đối nội và đối ngoại; nhiều cái lợi ích quốc gia đòi hỏi phải giữ đến cùng nhưng không giữ được; thậm chí phải bỏ qua, che đậy hay cắt xén cả lịch sử để giữ hòa hiếu, cho đội ngũ dư luận viên lung lạc dân (dọa mất sổ hưu!)… tất cả để cố cùng giữ đại cục cho bằng được… Nhưng trước sau nước ta vẫn cứ chịu thua thiệt tiếp, đất nước hôm nay càng lâm nguy. Làm nghề ngoại giao, thực quả đến nay tôi chưa tìm được trên thế giới này có một quốc gia độc lập nào có vị thế quốc tế không thể nói là thấp kém như Việt Nam mà lại chịu để cho một nước láng giềng khép vào khuôn khổ đến như vậy! Hai năm trời nước ta là ủy viên không thường trực Hội Đồng Bảo An mà cứ phải chịu im như thóc trước bao nhiêu việc sai trái của Trung Quốc trên Biển Đông…  Nhìn lại quá khứ, tôi cũng chưa thấy nước Việt Nam độc lập trong lịch sử mấy nghìn năm quan hệ với Trung Quốc có thời nào độc lập quốc gia lại bị trói buộc như hôm nay!  
Trong khi chăm lo giữ đại cục như thế, cũng xin đảng và nhà nước giao cho hàng nghìn người Việt đang làm việc hay học tập ở Trung Quốc nhiệm vụ tìm hiểu dư luận xã hội và báo cáo trung thực về nước xem Trung Quốc với tính cách là một quốc gia đang nhìn quốc gia Việt Nam như thế nào. Đại sứ quán của ta ở Trung Quốc phải là người trước tiên làm tốt việc này. Đồng thời cũng nên giao ngay cho các đoàn cán bộ đảng và nhà nước mỗi năm hàng trăm người được cử sang học tập ở Trung Quốc làm nghiêm túc việc tìm hiểu này. Một số sinh viên học ở Trung Quốc về nói với tôi: Ông ạ, cháu thấy họ nhìn Việt Nam chưa được một nửa con mắt đâu ạ. Họ khinh nước ta tệ hại hơn thế nhiều… Tại sao báo chí Trung Quốc ra rả hàng ngày những bài và tin tức về Việt Nam như thế, mà nhân dân ta chẳng được hay biết gì ngoài cái 4 tốt và 16 chữ? Tin tức một số báo chí Trung Quốc lâu nay nói thẳng: Việt Nam đáng cho một bài học mới (theo kiểu của Đặng Tiểu Bình), nhân dân Trung Quốc đã được chuẩn bị tư tưởng cho việc này… Ai muốn quy kết những điều tôi viết ra ở đây là kích động chống Trung Quốc thì tùy. Trước sau tôi vẫn nghĩ, muốn có hòa bình và giữ được hòa bình với Trung Quốc, nhất thiết phải hiểu họ, hiểu cho đến tận xương tủy họ[4]
Xin ý chí và trí tuệ cả nước hơn lúc nào hết thấy rõ: Một phần tư thế kỷ khai thác sự lệ thuộc đến mức gần như tự trói tay và tự bịt mắt của nước ta, Trung Quốc đã tạo ra được cho mình một tình huống hôm nay có trong tay đủ mọi kịch bản từ A đến Z để chủ động tùy nghi xử lý Việt Nam – từ những thủ đoạn đê tiện và bẩn thỉu nhất đến chiến tranh. Xin cứ nhìn xem Trung Quốc đang làm gì bằng “hòa bình”  và trong hòa bình – ví dụ trước khi cử Dương Khiết Trì sang Việt Nam (16-05-2014) thì đưa ra cho phía Việt Nam “4 không được”, cứ nhìn trong 2 ngày 13 và 14-05-2014 quyền lực mềm Trung Quốc kích động cướp phá thành công khỏang 800 xí nghiệp có FDI từ Bắc vào Nam, cứ nhìn Trung Quốc bầy binh bố trận trên bộ và trên biển chung quanh nước ta, cứ nhìn cái 9 vạch bây giờ thành 10 vạch, cứ nhìn rồi đây cái chiến tuyến trên biển nối liền các căn cứ quân sự Du Lâm (Hải Nam) Gạc Ma, Chữ Thập, rồi kéo tiếp về phía Scarborough (Philippines), và báo chí Trung Quốc đã để ngỏ khả năng lập vùng nhận dạng phòng không (AIDZ) trên Biển Đông… Rồi các ngón đòn kinh tế và quyền lực mềm khác sẵn sàng dành cho Việt Nam… Một số chuyên gia của ta tính toán những đòn kinh tế này có thể dễ dàng làm GDP của Việt Nam tụt 5 – 10%… 
Kịch bản Trung Quốc đang thực hiện để xử lý Việt Nam hiện là kịch bản tối ưu số một đối với họ. Bởi vì kịch bản này đang mang lại kết quả nhiều nhất, rẻ nhất, “êm ả” nhất: Duy trì được sự khiếp nhược hiện tại của Việt Nam để lấn chiếm tiếp, uy hiếp tiếp mà không phải dùng đến những biện pháp quân sự trực tiếp và ồn ào hơn. Chừng nào còn sự khiếp nhược này, kịch bản này còn phát huy tốt tác dụng. Làm quá tay dân chúng Việt Nam có thể sẽ nổi lên chống chế độ, mà như thế sẽ rất bất lợi cho kịch bản rẻ, tốt, “êm ả” và đang rất hữu dụng này! Nếu tình hình đòi hỏi chuyển kịch bản cũng không sao, mọi thứ Trung Quốc đã sẵn sàng… Cứ nghe những tuyên bố mới nhất của Tập Cẩm Bình cho rằng Biển Đông là lợi ích cốt lõi không thể nhân nhượng của Trung Quốc, rồi nhìn các hành động leo thang tiếp tục của Trung Quốc đang diễn ra, có thể thấy rõ toàn bộ cục diện Biển Đông hiện nay. 
Xin hỏi cả nước:
-      Quốc gia trong tình thế hiện nay đã sẵn sàng mọi mặt chưa? Bây giờ vẫn còn đang tính đến Chừng nào ngư dân còn bám biển thì còn giữ được đảoTrước sau vẫn phải kiên định… (các phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng).
-      Quốc gia trong tình thế hiện nay đã phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước chưa? Hay là bây giờ nói cứu nước là biểu hiện của hốt hoảng? của thổi phồng tâm lý bi quan, là kích động chống chế độ?.. 
Vậy chỉ còn mỗi cách mở mắt, mở mồm, cởi trói nhìn thẳng vào sự thật để tìm câu trả lời, tìm lối ra.  
Xin nói ngay ở đây thế này: Cái đáng lo đối với nước ta không phải là việc Trung Quốc có thể gọi mưa hú gió trị ta thế nào! Đấy không phải câu chuyện đáng sợ nhất, nước ta đã từng bị thử thách như thế nhiều lần rồi và không sợ. Đất nước này không thể mất về tay Trung Quốc được đâu. Nhưng thật sự cái đáng lo nằm ở chỗ bất ngờ hoặc để xảy ra hoang mang, tự ta phá ta, mắc bẫy vào chính cái võ kích động của quyền lực mềm Trung Quốc… Rồi cái nhân danh chống kích động và bạo loạn đển đàn áp dân… Trong khi đó đất nước đang phải đối mặt với trăm nghìn vấn đề nhạy cảm giữa hòa bình và chiến tranh, giữa ổn định và đổ vỡ. Ngay giữa Hà Nội mà có chỗ cứ lát 1m vỉa hè hết một tỷ đồng! Quảng Trị có nơi hạn hạn nặng hàng tháng nay không có nước cho người, gia súc và cây trồng. Khu công nghiệp Vũng Áng được hưởng ưu đãi đến tột cùng (Tuổi trẻ online 08-07-2014) với hàng nghìn lao động Trung Quốc chỉ cách căn cứ hải Quân Du Lâm ở Hải Nam và giàn khoan HD 981 khoảng trên dưới 200 km sẽ là cái gì đối với Việt Nam? Thể chế chính trị và hệ thống nhà nước hiện hành làm sao có được và quản lý được một nước công nghiệp cơ bản theo hướng hiện đại vào năm 2020? Nhập siêu và nợ công cứ tăng mãi không giảm. Thay thế nhập khẩu nguyên vât liệu từ Trung Quốc như thế nào? Nếu Trung Quốc gây rối loạn trên mặt trận tài chính, ngân hàng thì đối phó ra sao?.. v.v… Vâng, sẩy tay là rối lọan, là đổ vỡ, là dậu đổ bìm leo. Người Việt Nam nào không muốn có hòa bình lúc này để xử lý những vấn đề đang chồng chất ngập đầu mình!..  
Thế nhưng trong tình hình này cứ giấu dân, trấn an suông, không cùng với dân chuẩn bị đối phó với mọi tình huống, liệu có yên thân không? Cứ khiếp nhược cầu hòa mãi, liệu Trung Quốc có nương tay không? Thế giới sẽ nhìn Việt Nam ra sao? Giúp hay không nên giúp?..  Việt Nam có thực sự muốn được giúp không, hay là..?.. 
Chính lúc này hơn bao giờ hết phải bàn kỹ với dân, huy động trí tuệ và sự tham gia ứng phó của toàn dân. Hơn bao giờ hết phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước cho cả nước để cùng tìm cách thực hiện. Có tự giúp mình thì thế giới mới giúp mình! Phải đi với dân, đối thoại với dân để bàn việc cứu nước. Đối thoại trực tiếp với tất cả các tổ chức xã hội dân sự đang có, để cùng nhau bàn việc cứu nước, chứ không phải bịt miệng họ, quy kết cho họ đủ mọi thứ để khống chế hay đàn áp họ như vẫn đang làm. 
Lúc này vẫn kiên định hàng đầu là bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng như Tổng bí thư yêu cầu thì làm sao giữ được nước? Tại sao không đặt vấn đề ngược lại: Lấy giữ nước, cứu nước làm nhiệm vụ trung tâm, qua đó thay đổi chế độ, thay đổi hay là lột xác đảng để trở thành đảng của dân tộc? Đất nước không cứu được, liệu đảng sẽ còn tồn tại? Mà nếu còn tồn tại thì sẽ là cái đảng gì? Có thể tồn tại như thế mãi được không? Đại hội XII có nên quan tâm vấn đề này không? Đặt vấn đề hay không đặt vẫn đề cứu nước chính là ở điểm nghiêm trọng này. 
Tôi nghĩ đại đa số người dân nước ta – trước hết là trí tuệ Việt Nam – đủ hiểu biết và có bản lĩnh làm như thế để cứu nước. Tôi thực sự tin rằng có nhiều đảng viên ĐCSVN cũng đang nghĩ và muốn làm như thế. Chẳng ý đồ đen tối nào có thể kích động nổi chúng ta mù quáng chống Trung Quốc theo bất kể lối suy nghĩ kỳ thị và phân biệt chủng tộc nào. Chính vì muốn sống hòa bình bên cạnh Trung Quốc, nên bây giờ việc đầu tiên phải làm là cứu nước. Cứu nước khỏi cái mù quáng và tự trói đối với Trung Quốc, khỏi tình trạng quyền lực chỉ lo quay về trấn áp trong nước để bảo vệ chế độ, khỏi mọi yếu kém vì đất nước đang khủng hoảng và tha hóa toàn diện, khỏi tình trạng mất phương hướng và tê liệt về con đường phát triển. Cứu nước để tìm ra con đường làm cho đất nước mạnh lên theo mọi nghĩa. Vì chỉ như thế mới có thể chung sống hòa bình với Trung Quốc, rồi từ đó mới có hữu nghị đúng đắn, hợp tác đúng đắn. Một phần tư thế kỷ tự trói vừa qua để giữ đại cục đã dắt chúng ta đến câu trả lời này.  
Nếu ai nghĩ rằng làm cho Việt Nam mạnh như thế là chống Trung Quốc, thì cứ để cho họ bênh và bảo vệ Trung Quốc. Ai quy kết rằng gọi mọi sự việc đúng với tên thật trong quan hệ Việt – Trung là kích động chống chế độ, chống đại cục quan hệ Việt – Trung, thì đấy chính là biểu hiện muốn đàn áp những nỗ lực muốn cứu nước. Ai thực sự muốn đục nước béo cò bằng những việc làm kích động thù hận hay xuyên tạc sự thật để gây rối kiếm lợi bẩn thỉu, thì chính những việc làm này nói lên dã tâm của họ. Tất cả những thứ này không phải là công việc của chúng ta và cũng không thể lung lạc chúng ta.  
Xin nhấn mạnh, cái sai gốc trong việc tìm kiếm liên minh ý thức hệ ở Thành Đô là ở chỗ: Làm tất cả mọi việc để bảo vệ chế độ, rồi mới tính đến giữ nước. Đấy là cách tính toán có giữ được chế độ mới giữ được nước.  Nhất thiết phải sửa cái sai gốc vô cùng tệ hại này. 
Trước tình hình đất nước lâm nguy hôm nay, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi trước các cử tri (Hà Nội và một số nơi khác) phải kiên định giữ hòa bình, đoàn kết, bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân, không lầm lẫn đấu tranh chống những sai trái trên Biển Đông với 1,3 tỷ nhân dân Trung Quốc, phải kiên trì gìn giữ mối quan hệ hai nước đã xây dựng được từ lâu đời, phải đấu tranh  bằng mọi biện pháp hòa bình – kể cả những biện pháp luật pháp quốc tế, phải đề phòng kẻ xấu kích động…   
Tất cả những điều Tổng bí thư đã nói trên hiển nhiên vẫn là nếp nghĩ cũ, vẫn là cách tính toán có giữ được chế độ mới giữ được nước đã từng dẫn tới Thành Đô trước đây 25 năm, là cách ĐCSVN đã làm rất triệt để xuyên suốt 25 năm vừa qua, và hôm nay dẫn đất nước tới cái giàn khoan HD 981 với nhiều hệ lụy mới. Cho đến khi tôi viết những dòng chữ này, chưa thấy một ý kiến nào từ lãnh đạo đảng đặt vấn đề: Đất nước phải tìm một con đường khác để có thể sống được hòa bình bên cạnh Trung Quốc. Hay là đảng đang giữ bí mật?
Không phải chỉ riêng tổng bí thư, toàn thể Bộ Chính trị đến nay chưa ai nói thẳng ra với cả nước để cùng lo liệu: Đất nước đang bị Trung Quốc uy hiếp nghiêm trọng thế này vì yếu quá và có đang có quá nhiều yếu kém đối nội cũng như đối ngoại. 
Cũng chưa thấy vị lãnh đạo nào nghiêm túc đặt vấn đề: Duy trì hiện trạng của đất nước, đất nước sẽ thua tiếp, lâm nguy tiếp! Phải tìm đường làm cho nước mạnh lên để cứu nước! Thay vào đó, lúc này lúc khác chỉ có những câu nói trấn an mà chính người nói có lẽ cũng thấy khó tin. Làm như vậy hiểm nguy của đất nước sẽ bớt đi? 
(1) Đất nước đang có quá nhiều yếu kém nguy hiểm, con đường phát triển đất nước do có quá nhiều sai lầm nên đang bị cuộc khủng hoảng toàn diện hiện nay chặn đứng, (2) uy hiếp của Trung Quốc ngày càng không kiểm soát được và độc lập chủ quyền quốc gia đang bị xâm lấn tiếp, (3) kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đã sang trang với những vấn đề và thách thức hoàn toàn mới – cả 3 vấn đề lớn này đảng chưa có đối sách nào, chưa có một hướng chiến lược xoay sở ra sao… Chẳng lẽ tình hình như vậy chưa đủ để nhận định đất nước đang lâm nguy đến mức phải đặt vấn đề cứu nước? Xin cả nước suy nghĩ cho thật kỹ. Ngay hiện tại đã có nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, đối ngoại… nước đến chân rồi mà chưa biết nhảy như thế nào… Chẳng lẽ trước sau chỉ một mực: Ngư dân còn bám biển thì còn đảo!.. 
Trong ngôn ngữ và sinh hoạt đảng hiện nay hình như đang thiếu vắng hoàn toàn hai chữ cứu nước!?  
Đại hội XII của ĐCSVN sắp đến. Trong quá trình chuẩn bị, dư luận cả nước chỉ được thông báo những việc có liên quan đến chuẩn bị nhân sự đại hội các cấp; kêu gọi các cấp nghiêm túc thực hiện những quyết định của Hội nghị Trung ương 9 về chuẩn bị Đại hội – nhưng dư luận cả nước không biết rõ đấy là những quyết định gì; đặt vấn đề phải tổng kết 30 năm đổi mới nhưng dư luận cả nước không biết là sẽ tổng kết như thế nào (còn tổng kết như các đại hội các khóa trước đã làm thì đã dẫn đến thực trạng đất nước hôm nay…) Nghĩa là cũng như mọi khóa đại hội khác, việc của đảng là việc của đảng, nhân dân là người ngoài cuộc với lọn nghĩa của khái niệm này; nếu có chuyện lấy ý kiến này nọ thì cũng chỉ là làm chiếu lệ cho có vẻ dân chủ.  
Song mọi việc đại hội XII của đảng sẽ quyết lại là những việc liên quan đến sự mất còn của đất nước. Cho đến nay chưa thấy một thông báo nào đặt vấn đề đại hội tới sẽ phải làm gì, đảng sẽ phải làm gì. để đất nước mạnh lên để cứu nước? Chẳng lẽ đấy là bí mật của đảng – nghĩa là đất nước này là của riêng đảng. Hay là vấn đề này chưa được đặt ra? Đến bây giờ chỉ có những thông báo phải bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, kiên định giữ hòa bình, chống bị kích động… – như 25 năm nay vẫn thường làm. 
Xin nhắc lại tại đây một chân lý nguyên sơ rất mộc mạc: Đất nước này là của nhân dân, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là của đảng, đơn giản là đảng cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong nhân dân mà thôi. Dù đảng có yêu nước giả thử là hơn dân, thông minh hơn dân vài con sào đi nữa, đất nước vẫn là của nhân dân, trong đó đảng chỉ là một bộ phận. Đấy là giả thử thôi, hôm nay phải nói ngược lại. 
Song trên tất cả mọi lý lẽ, đất nước đang lâm nguy, làm cho nước mạnh lên để cứu nước là sự nghiệp của nhân dân cả nước, của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Đây không được phép là việc riêng của đảng. Đây không thể là công việc riêng của ĐCSVN, dù có muốn đảng cũng không làm nổi.  
Không bao giờ được phép coi cứu nước là một việc riêng của đảng, bởi vì nhân dân cả nước không  bao giờ giao cho đảng một việc riêng như thế. Nhưng nhân dân sẵn sàng để cho đảng phục vụ một sự nghiệp như thế nếu đảng có phẩm chất và năng lực phục vụ sự nghiệp này đúng với ý nguyện của nhân dân và lợi ích của quốc gia. Nếu cứu nước không phải là việc riêng của đảng, nhất thiết đảng phải bàn luận với cả nước. Nếu làm đúng trách nhiệm là đảng đang độc nhất nắm quyền, ĐCSVN phải đứng ra tổ chức để nhân dân cả nước bàn bạc và quyết định việc cứu nước, chứ không phải ngăn cấm hoặc gây cản trở việc bàn luận, bưng bít báo chí… như hiện nay. 
Trong  sự nghiêp cứu nước, dứt khoát đảng phải chấm dứt việc loại nhân dân ra ngoài cuộc, đơn giản vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc là sự nghiệp của nhân dân, không thể khác được, không ai làm thay được. Thậm chí phải nói, chính vì loại nhân dân ra ngòai cuộc, cho nên đảng đã liên tiếp vấp phải những thất bại nặng nề trong 40 năm đầu tiên đất nước độc lập thống nhất mà lịch sử chắc chắn sẽ không bỏ qua.  
Ví dụ:
-      Nếu ngay sau khi đất nước độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 đảng phát huy trí tuệ và sức mạnh của nhân dân với tới cả tình thần đoàn kết và hòa giải dân tộc để xây dựng nên một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ, mọi chủ quyền đất nước thuộc về nhân dân, lựa chọn con đường dân tộc và dân chủ cùng đi với cả thế giới tiến bộ để xây dựng và bảo vệ đất nước, hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong thế giới này? Vì không làm được như vậy, phải nói đây là thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của ĐCSVN. Con đường đã đi phải trải qua 4 cuộc chiến tranh đẫm máu, thế nhưng hôm nay đất nước vẫn chỉ đạt được mục tiêu dang dở: chưa hoàn thành nốt sự nghiệp cuối cùng đảng đã cam kết là đem lại độc lập tự do cho nhân dân.
-      Nếu không loại nhân dân ra ngoài cuộc, nếu dựa hẳn vào nhân dân, coi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc là của nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân, coi lợi ích của nhân dân và của quốc gia là trên hết, sợ gì mà không phát huy nhân dân đi cùng với cả thế giới để giữ nước và xây dựng đất nước theo con đường dân tộc và dân chủ. Đâu có cần thiết phải đến Thành Đô để tìm kiếm thứ liên minh khốn khổ này?
-      Nếu trong toàn bộ quá trình đàm phán biên giới  Việt – Trung không bí mật với nhân dân, mà lại lấy nhân dân làm hậu thuẫn và dựa vào lẽ phải trong đời sống quốc tế, kết quả sẽ thế nào?
-      Che giấu nhân dân biết bao nhiêu sự việc sai trái của Trung Quốc có làm giảm được tính bành trướng và sự thâm độc của Trung Quốc hay không? Vân… vân…
-      …
-      …

Bí mật quốc gia lúc nào cũng có, song đấy là những vấn đề chiến lược hay chiến thuật cụ thể. Còn đường lối giữ nước, toàn bộ nhiệm vụ cứu nước thì phải dựa hẳn vào dân. Đấu tranh tổng hợp và toàn diện để giữ nước chống lại kẻ thù lớn hơn mình gấp bội, càng phải dựa vào dân, trang bị cho nhân dân mọi hiểu biết và thông tin để có thể dựa hẳn vào nhân dân, taọ mọi điều kiện phát huy sức mạnh và sự tham gia của dân vào việc nước… Chứ không phải là cung cấp cho nhân dân những thông tin định hướng, dậy dân theo kiểu làm cho nhiều thế hệ trẻ hôm nay vẫn không biết là đã xảy ra chiến tranh 17-02-1979, thậm chí xóa cả những vết tích các tội ác chiến tranh nhân dân ta đã phải chịu đựng, biết tên kẻ cướp mà cứ phải gọi nó là kẻ lạ, tầu lạ…  
Và nhất là để cứu nước, đừng bao giờ coi dân là kẻ thù, áp dụng những cách đối xử dân như kẻ thù, trấn áp sự phản kháng chính đáng của dân nhân danh bảo vệ cái này cái nọ. 
Nói đi cũng phải nói lại, từng người dân cũng phải ý thức đầy đủ về quyền và trách nhiệm của chính mình: Đất nước này là của chính mình! Đừng bao giờ chịu bị loại ra đứng ngoài cuộc trong những vấn đề sống còn của đất nước. 
Đã đến lúc phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước là sự nghiệp trọng đại nhất của toàn dân tộc ta lúc này. ĐCSVN bây giờ là gì, chính là thái độ của đảng đối với sự nghiệp trọng đại nhất của toàn dân tộc lúc này là cứu nước. 
*
          Vâng, một phần tư thế kỷ quan hệ hòa hiếu với Trung Quốc vừa qua, sự việc nước ta đi từ thất bại này đến thất bại khác trong mối quan hệ hai nước có một trong những nguyên nhân chiến lược quan trọng nhất là đã không lựa chọn con đường cứu nước phải là con đường làm cho đất nước mạnh lên. Những thất bại ấy là cái giá phải trả cho việc lựa chọn con đường dựa vào liên minh ý thức hệ để bảo vệ chế độ, trên cơ sở đó để giữ nước, và do đó đã đi tới cái quyết định Thành Đô. Con đường ấy được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định đi khẳng định lại nhiều lần qua sửa đổi Hiến pháp 2013, và mới đây nhất là khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội: Phải kiên trì bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân, đề phòng mọi kích động… 
          Một phần tư thế kỷ vừa qua, vì ưu tiên số một là phải bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng.., chứ không phải ưu tiên số một là làm cho đất nước mạnh lên với đúng nghĩa, nên đã đạt được trong chế độ toàn trị một đảng là: Chế độ “mạnh” lên, đảng “mạnh” lên – mạnh với nghĩa càng chuyên chính hơn với dân, càng “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước… Còn đất nước ta trở thành cái gì như hôm nay và đang gần như thân cô thế cô như thế này trong cái thế giới mà nước ta đã hội nhập toàn diện thì cả nước đều thấy rõ. Thân cô thế cô giữa lúc cả thế giới – chỉ ngoại trừ Trung Quốc – muốn có một Việt Nam mạnh mẽ đứng vững chãi trên đôi chân của mình! Thật là quái ác làm sao! 
Đừng đổ hết mọi cái xấu, mọi cái nguyên nhân thua thiệt của ta cho phía Trung Quốc. Nghiêm túc thì phải tự phê bình – xin  tạm mượn cách nói theo ngôn từ ưa thích của Tổng bí thư – : Để cho đất nước yếu kém như hôm nay, để cho Trung Quốc lũng đoạn nước ta trầm trọng như thế này, có nguyên nhân chủ yếu là đảng càng ra sức bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng là ưu tiên hàng đầu. Hệ quả là cả chế độ và đảng ngày càng hư hỏng và tha hóa nhiều hơn. Chỉ cần xem thống kê hàng năm các tội phạm tham nhũng tiêu cực, quy mô các tội phạm này, mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng, số đảng viên phạm tội ngày càng nhiều và chức vụ ngày càng cao – giữa lúc từ nhiều năm nay đang đẩy mạnh học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh… – đủ thấy rõ thực trạng hư hỏng và tha hóa này. Sự yếu kém toàn diện của cả nước hiện nay trước hết là tổng hợp sự tha hóa toàn diện của chế độ và của đảng, chứ không thể đổ lỗi cho Trung Quốc hay cho bất kỳ lực lượng thù địch hay diễn biến hòa bình nào. 
Đúng ra còn phải nhận định: Ưu tiên bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng như đã làm suốt một phần tư thế kỷ vừa qua trong khuôn khổ liên minh ý thức hệ Thành Đô với Trung Quốc đã hủ hóa đảng nghiêm trọng, đồng thời làm hỏng cả chế độ, làm hỏng cả đất nước. Nhiều giá trị đạo đức xã hội hôm nay băng hoại nghiêm trọng so với thời kỳ 1990… Đảng đang ngày càng cùn đi về trí tuệ và ý chí chiến đấu, bây giờ chỉ biết cố học đủ mọi thứ từ Trung Quốc, lúc này vẫn đang cử người đi học mọi thứ ở Trung Quốc… Đảng bây giờ chỉ biết ra sức bám vào quá khứ để biện minh cho vị thế chính trị hiện tại đảng đang nắm giữ. Đảng ngày càng co rúm thụ động trước mọi thay đổi diễn ra ở trong nước và trên thế giới, đến mức trên thực tế đảng đã tự đánh mất vai trò lãnh đạo lẽ ra phải có, đơn giản vì bất lực không thể vạch ra được lối thoát đất nước đang đòi hỏi. Đảng càng không dám đi tiên phong tìm lối thoát cho đất nước. Đảng hôm nay trên thực tế chỉ còn lại là một lực lượng chính trị mạnh nhất trong nước đang cai trị đất nước, với mọi quyền lực kinh tế và chính trị lớn nhất, với sự chi phối của các nhóm lợi ích chồng chéo. Đảng với tính chất mới được hình thành trong quá trình tha hóa như thế trên thực tế đang trở thành đảng của các nhóm quyền lực và các nhóm lợi ích khác nhau, rất thuận lợi cho quyền lực mềm Trung Quốc khai thác. Nghĩa là đảng cũng đang trở thành con tin của những thứ nhóm này, trở thành lực cản sự phát triển của đất nước. Trung Quốc đã đi được những nước cờ tệ hại quá đáng đối với nước ta, hù dọa và kiềm tỏa nước ta, ngăn cản được nước ta đi với cả thế giới.., trong đó có nguyên nhân quan trọng là đảng đang ở trong thực trạng yếu kém như hiện nay. 
Từng đảng viên, trước hết là những người giữ trọng trách trong đảng, nếu còn quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ đảng, nếu còn tự trọng danh dự người đảng viên, còn chút tấm lòng với đất nước, xin hãy cùng nhau nhìn thẳng vào thực trạng hiện nay của đảng. 
Riêng đối với đảng viên, tôi xin giãi bầy: Muốn cứu nước thì phải cứu đảng trước! Đấy là món nợ lương tâm và là trách nhiệm chính trị phải trang trải của mỗi đảng viên đối với đất nước. Đảng viên không cứu đảng thì còn ai làm nữa?  
Đối với cả nước, tôi  không thể đòi muốn cứu nước trước hết phải cứu đảng.  
Nhưng đối với đảng viên, tôi bắt buộc phải nói như vậy, vì lẽ: Nếu từng đảng viên không làm được cho đảng của mình với tính cách chỉ còn là lực lượng chính trị mạnh nhất  như hiện nay phải thay đổi đến mức lột xác về ý thức hệ và về phẩm chất, để cùng đi chung với toàn dân tộc trong sự nghiệp làm cho đất nước mạnh lên, sẽ là một thảm họa cho đất nước. Vì như thế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước rồi đây sẽ phải đối kháng với lực lượng chính trị mạnh nhất này trong nước, đầu rơi máu chẩy cho vô nghĩa sẽ là chuyện không thể tránh khỏi. Nếu mỗi đảng viên hôm nay sớm quên hoặc không biết quá khứ đau thương của dân tộc ta trong 4 cuộc chiến tranh vừa qua của đất nước, xin chịu khó học nhờ các bài học xương máu đang nóng hổi của nhân dân các nước Trung Đông,  Bắc Phi và Ukraina hiện nay… 
Cho nên không gì may mắn hơn cho đất nước chúng ta, nếu làm cho lực lượng chính trị mạnh nhất này ý thức được nhiệm vụ chính trị mới này để tự lột xác cùng đi với cả dân tộc. Đảng dù yếu kém như hiện nay, song biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết vẫn dư lực ý thức được và làm được nhiệm vụ chính trị đáng phải làm này, thậm chí có thể sẽ là quân chủ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng đại này của quốc gia. Làm được như thế, từ trong hàng ngũ các đảng viên của đảng sẽ xuất hiện những gương mặt mới trong hàng ngũ cứu nước của quốc gia, rồi sự rèn luyện của cuộc sống sẽ làm nên tất cả những gì cuộc sống đòi hỏi. Ai suy nghĩ gì về lời giãi bầy này thì tùy, trước sau tôi cho rằng vận mệnh của đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay và trong thực trạng yếu kém của đất nước chỉ đặt ra cho các đảng viên ĐCSVN sự lựa chọn duy nhất này mà thôi.  
Truyền thống yêu nước là nền móng đầu tiên xác lập nên ĐCSVN khi còn đang mất nước. Trước Cách mạng Tháng Tám, trong 2 cuộc kháng chiến và cả nhiều thời kỳ sau này nữa.., hầu hết hay rất nhiều người gia nhập ĐCSVN trước hết là vì yêu nước, muốn hy sinh chiến đấu giải phóng đất nước, tự nguyện xin được cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tại sao trong đảng không lấy truyền thống yêu nước ấy để hôm nay xác định cho mình con đường cùng đi với cả dân tộc? Hãy bắt đầu từ việc đảng không được phép coi đất nước là của riêng mình. Nhân dân dân là nhân vật trung tâm của sự nghiệp cứu nứơc hôm nay. Hay là bây giờ quyền lực, tiền bạc và mọi lợi ích ích kỷ cùng với mọi sa đọa khác đã làm biến chất đảng tất cả?  
Trong tình hình hiện nay, nếu đảng viên không cứu nổi đảng của mình để chọn con đường cùng đi với cả dân tộc như thế, đảng chỉ còn lại sự sàng lọc không thể cưỡng lại của quy luật tự nhiên. 
Lựa chọn con đường làm cho đất nước mạnh lên để cứu nước trước hết có nghĩa là tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện sự nghiệp làm cho đất nước mạnh lên 

(1) Thế giới đã chuyển hẳn sang một cục diện mới của trật tự quốc tế đa cực, mọi giá trị và phương thức tập hợp lực lượng quốc tế đã thay đổi sâu sắc rất khó lường, quan hệ kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đặt ra cho mọi quốc gia những vấn đề và thách thức hoàn toàn mới. (2) Trong cái nóng bỏng của trật tự quốc tế mới hiện nay vấn đề Trung Quốc càng làm cho cả thế giới mất ổn định hơn và có nhiều tác động trực tiếp đến nước ta với tính cách vừa là nạn nhân trực tiếp nhất của bành trướng bá quyền Trung Quốc và vừa là trận địa của những đụng độ giữa các quyền lực lớn. (3) Đất nước bắt buộc phải có một thể chế chính trị mới đủ sức phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho việc thoát khỏi khủng hoảng hiện nay và đi vào một thời kỳ phát triển mới bền vững của con đường dân tộc và dân chủ, để từ đó mới có thể đứng vững ngay trên trận địa của đất nước đầy sóng gió. Nội dung của nhiệm vụ cứu nước đặt ra cho nhân dân ta lúc này chính là xử lý thắng lợi 3 vấn đề trọng đại ấy của hôm nay. 
ĐCSVN hôm nay là gì? Câu trả lời phụ thuộc vào việc đảng có đặt ra cho mình và cho cả nước câu hỏi Hiện nay có hay không có vấn đề cứu nước? như đã trình bầy trên, cùng bàn bạc với cả nước để trả lời bằng được câu hỏi này. 
Nhìn lại 25 năm qua từ Thành Đô, như đã nói ngay ở trên, liên minh ý thức hệ tìm kiếm ở Thành Đô thực chất là do ảo tưởng hay do lo sợ, nên trên thực tế là đã đi tìm kiếm liên minh với kẻ vừa mới làm thịt nước mình liên tiếp mấy trận liền. Chính vì thế trong ¼ thế kỷ tiếp theo của liên minh này nước ta bị ăn thịt tiếp nhiều lần là điều tất yếu, làm sao tránh được? Sự thật này còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy. Bởi vì Thục Dương Vương, giữ hòa hiếu trong tư thế một quốc gia độc lập, Người thua chẳng qua chỉ vỉ mất cảnh giác mà thôi. Còn ở Thành Đô, ĐCSVN tự nguyện ép mình đi hẳn với liên minh mà vẫn thua mất cả chì lẫn chài. Thỏa thuận hòa hiếu cấp cao giữa hai nước mới đây nhất là năm 2011 cũng chỉ là một mớ giấy và chữ, không thể cản nổi cái giàn khoan HD 981. Nó còn cay đắng hơn muôn phần ở chỗ cuối cùng thì Thục An Dương Vương cũng nhận ra được kẻ thù làm mình mất nước là ai. Còn nước ta hôm nay? 
Còn hôm nay, ĐCSVN và những người đứng trong hệ thống chính trị của đất nước liệu đã nhận dạng được kẻ đã nhiều lần ăn thịt mình và bây giờ đang lăm le ăn thịt mình tiếp hay chưa? Trả lời câu hỏi này tùy thuộc ĐCSVN lúc này và trong quá trình chuẩn bị cho đại hội XII có đặt ra hay không đặt ra vấn đề cứu nước như đã trình bầy trong bài viết này hay không./.
Nguyễn Trung
Hà Nội, ngày 05-07-2014
[1] Sách trắng về “Sự thật Quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua”, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1979. http://thuctu.blogspot.com/2012/07/sach-trang-su-that-ve-quan-he-viet-nam.html/ Tham khảo thêm
[2] Tham khảo thêm: Thư của Nguyễn Trung ngày 28-10-2010 gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng,  Http://nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn Đảng Cộng Sản Việt Nam.
[3] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Xin hãy mở to mắt”, http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HayMoToMat.htm
[4] Tham khảo: (1) Tổng bí thư Lê Duẩn nói về Trung Quốc   http://nguyenxuanhung.com/page/detailinfo/idc/12/id/156/le-duan-noi-ve-trung-quoc-va-canh-bao-am-muu-cua-tq.html.
(2) Sách trắng “SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC  TRONG 30 NĂM QUA” http://sachhiem.net/LICHSU/NXB_ST/NXBSuThat_1.php.
(3) Trần Quang Cơ: Hồi ức và suy nghĩ http://minhtrietviet.net/lemontee/wp-content/uploads/2014/06/HOI-UC-SUY-NGHI-
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 9-7-14

Wednesday, July 2, 2014

Trằn trọc tháng bảy

02/07/2014

Hà Sĩ Phu

Khoa học cho biết trong không gian luôn có những sóng vô hình tác động vào cơ thể con người làm cho mình bỗng nhiên thay đổi sinh hoạt, thay đổi tính tình, cảm xúc. Đã hai tháng nay, thềm lục địa của nước mình bị cái giàn khoan khổng lồ của của tên cướp biển cắm vào trúng long mạch của nòi giống Việt, chẳng biết có phải vì thế mà khiến cho nhiều người Việt mình ăn ngủ không yên, hằng đêm thắc thỏm, cứ thắp nhang lên bàn thờ là thấy hình ma quỷ hiện về, lo nghĩ mung lung, đêm nằm thường sinh ác mộng. Tôi ngẫm từ cá nhân mình thì biết. Xin kể với bạn bè những suy nghĩ mung lung ấy của mình thường bất chợt hiện về trong giấc ngủ. Tản mạn đủ điều, không mạch lạc.
1. Ác mộng
Cứ lơ mơ ngủ là hiện ra rõ mồn một cảnh một gia đình cự phách bỗng dưng tan tác như một lũ ăn mày. Tổ tiên họ để lại cho con cháu một cơ ngơi đồ sộ đủ làm ăn no ấm đến muôn đời. Chẳng ngờ thằng anh cả say mộng gia trưởng, hão huyền, lừa đàn em để lén đi đánh bạc với lão hàng xóm tinh quái, bị thua bạc phải đem gán cả cái gia tài gấm vóc ấy, lại ngầm ký mấy bản giao kèo hẳn hoi.
Hốt hoảng sợ gia đình biết sẽ đánh đuổi ra đường, thằng thua bạc bèn nói khó với lão hàng xóm tìm cách lo liệu sao cho trót lọt. Hồi lâu bàn bạc, hai bên nghĩ ra một mẹo, không trao cả gia tài ngay một lúc mà cứ “bàn giao” từng phần, cho gặm dần như tằm ăn lá dâu, nay thuê khoảnh vườn này 50 năm, mai cho một bọn gia nhân sang làm nhà ở nhờ một góc, mốt cho thuyền bè sang đánh cá chung tại hồ, lại cho mấy con nô tỳ ăn ngủ với thằng anh cả ấy đến có con riêng…
Gia đình có phát hiện thì thằng anh cả mất nết ấy cứ dùng “quyền huynh thế huỵch” lấp liếm vài câu lấy lệ, cũng ra vẻ khoa chân múa tay phản đối lão hàng xóm cho qua chuyện, hứa hươu hứa vượn cốt sao gia đình không nổi giận, nổi khùng. Cứ thế chẳng mấy chốc cả gia tài đồ sộ rơi hết vào tay lão hàng xóm, còn gia đình thì “may mắn” được lão hàng xóm “tốt bụng” mở lượng hải hà cho lưu trú ở một góc vườn, con cháu đời đời được làm kẻ hầu người hạ cho lão hàng xóm tham lam tinh quái. Cả gia đình bất hạnh chỉ còn biết ngậm một nỗi căm hờn trong tủi nhục, chẳng biết trách mình ngu dại, lại thầm trách tổ tiên đã làm gì thất đức để sinh ra một thằng con trưởng vô phúc, bán cả cha ông…
Tỉnh dậy thấy mắt mình ươn ướt, chắc mắt già kèm nhèm nó thế, chứ chẳng lẽ lại vớ vẩn thương cái gia đình trong mộng, thế rồi mệt quá mà ngủ thiếp đi.
2. Ngộ độc hàng Tàu
Đấy là chuyện ngủ, giờ đến chuyện ăn. Một đất nước xưa nay rất trong lành mà bây giờ hằng ngày ăn gì cũng sợ độc, một thứ độc rất… Trung Quốc! Vợ tôi thường mua lê mua táo thắp nhang, những quả táo quả lê rất đẹp nhìn mà phát thèm, thế nhưng để quên ba tháng trên bàn thờ mà trông vẫn đẹp mã như không mới hoảng hồn chứ, bổ ra thấy quả thì rắn như đá, quả thì thối đen bên trong, không biết họ tẩm chất gì lạ thế, chỉ dân mình là khổ.
Nhưng đêm nằm nghĩ lại thấy người dân còn may, chứ lớn lao như Đảng ta mà xơi phải món vịt tiềm thuốc Bắc “Thập lục kim tự” (vịt đây là vịt Bắc Kinh chính hiệu) là biến thái ngay không cứu được nữa là.
Động lòng trắc ẩn, tôi nhập hồn Bút Tre, nhỏm dậy, bật đèn ghi vội vào nhật ký:
Ngộ độc là tại hướng (ba) đình
Cả làng ngộ độc, cớ chi mình kêu ca?
Đường đường như thể đảng Ta
Xơi phải mười sáu chữ, cũng biến ra… đảng Tàu!
Biết có bậc đại nhân cũng ngộ độc như mình, như có người “đồng bệnh tương lân” nên tấm lòng AQ cũng tự sướng đôi chút.
3. Ước gì mình nhầm
Viết thế rồi vẫn cứ áy náy, liệu mình nghĩ như thế có nhầm không, có quá không? Vẫn biết tình hình hiện nay, hai chữ “bán nước” thiên hạ đã nói, đã viết giăng giăng khắp nơi, đến nhà “Hồ Chí Minh học” Nguyễn Khắc Mai cũng đã công khai bảo cái công hàm của chính phủ Phạm Văn Đồng (tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch) là phản động, phản quốc rồi, nhưng thôi, cứ níu lấy hy vọng chút xíu, cứ đắm đuối, cứ mong sao những suy nghĩ của mình là nhầm lẫn thì đại phúc cho dân, theo kiểu “lạc quan vô tận” ấy mà. Trước đông người, ai nỡ buông một lời tuyệt vọng? Lạy trời cho những lời phê phán của mình là nhầm, nhầm vài phần trăm thôi cũng được.
Nhưng khốn nỗi, không gì chống nổi thực tế, những tin tức sáng nay (xem phần dưới) đã thêm một lần quyết định, cho thấy sự kết tội như thế chẳng những không nhầm, rất không nhầm, mà trái lại còn chưa tới, chưa ngang tầm với thực tế đồi bại không thể chối cãi. Cuộc đầu hàng và Hán hóa đã đi nhanh hơn sức mình tưởng tượng, vì được chuẩn bị quá lâu rồi.
4. Những tin tức sáng nay.
Tin thứ nhất là ảnh chụp bức công văn của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi các địa phương về 16 điều cần làm ngay để thực hiện theo ý kiến của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (xem tại đây, và tại đây). Trong đó có điều 1 “Thúc đẩy Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị và Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải thăm Quảng Đông”.
Và trong điều 2, Trung Quốc sẽ đào tạo các cán bộ đảng cho Việt Nam, cụ thể là “trong 05 năm đào tạo 300 cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam; trong đó Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi địa phương 100 cán bộ, 100 cán bộ của các tỉnh thành có quan hệ hợp tác với Quảng Đông nhiều như TP. Hải Phòng, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam“.
Tưởng Việt Nam đã cam tâm làm một tỉnh “Quảng Nam” của Trung Quốc, hóa ra không được thế, chỉ đáng là một địa phương trong vòng quản trị của tỉnh Quảng Đông thôi. Chẳng trách UV BCT Nguyễn Thiện Nhân cũng chỉ ở tầm nhảy múa với tỉnh Quảng Tây, thế cũng vinh dự chán! Hề hề, trước đây học sách thấy hai chữ “khuyển mã”, giờ mới hiểu nghĩa. Bình luận thêm nữa là thừa.
Tin thứ hai, một cán bộ khá cao cấp cho biết tinh thần chống xâm lược mới nhất của Trung ương cần được quán triệt là :
Một: Tận dụng mọi phương tiện truyền thông, mọi diễn đàn để tố cáo China, NHƯNG DỨT KHOÁT KHÔNG KIỆN.
Hai: Xác định Mỹ vẫn là kẻ thù lâu dài (của đảng) vì đi với Mỹ thì mất chế độ.
Ba: ĐẢNG RẤT THƯƠNG DÂN, có chiến tranh thì nhân dân sẽ khổ, nên đảng phải nhịn Trung Quốc hết mức, không để xảy ra chiến tranh tránh khổ cho dân.
Tuy đây chỉ là thông tin từ thư của bạn bè, nhưng đối chiếu với thực tế và theo kinh nghiệm cho biết những tin tức này là đáng tin cậy, một đảng viên tử tế không thể bịa ra những tin đang phổ biến trong đảng như thế này. Tin tức này gợi ra một số vấn đề mà tôi thường nghĩ tới nhưng chưa có dịp viết ra, xin đề cập đến ở phần sau.
(còn tiếp)
H.S.P. ngày 1-7-2014 
 http://boxitvn.blogspot.com/2014/07/tran-troc-thang-bay.html

Mọi việc ngày nay đã rõ ràng
Quê hương Nước Việt mở sang trang
Toàn dân giờ trở thành nô lệ
Một cổ hai tròng ách ngoại bang!
Thanh-Huyền