Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
1.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève
là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp
Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các
nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô,
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc
Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được chia thành hai vùng tập
trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng
Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc
tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt
Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc
(tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam).
Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi
bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để
hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc
ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt
và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự
tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được
trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong
thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu
thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ
quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời
hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi
hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng
cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100
ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp
Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt
(300 ngày).
2.- AI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE ?
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng
Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng
của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định
của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà
cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN
đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành
hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.
Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:
Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu
(Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu
Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày
5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí
Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị
bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại
có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève]
Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh
Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27
“Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những
chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà
còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn
Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc,
tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy
Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập
ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng
10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành
TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại
thành TƯCMN.)
Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản
Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây
Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève,
nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi
hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3.- BẮC VIỆT NAM ĐÒI HỎI ĐIỀU KHÔNG CÓ
Hiệp định Genève chỉ là một
hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp
chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève,
thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ
tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp
thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day,
New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng
Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính
phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc
phải thi hành.
Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc
lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958,
để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên
truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là
tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève,
không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống
nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng
tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái
đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo
bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7,
ghi rằng:
“Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt
Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm
cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân
Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào
tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những
nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp
định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm
quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề
đó.” (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden
(ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp,
Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”.
(Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á
2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có
phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có
chữ ký.
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration)
của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong
tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng
dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có
chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp
định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là
bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève
ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày
21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi
phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
4.- BẮC VIỆT NAM BỊA ĐẶT LÝ DO ĐỂ TẤN CÔNG MIỀN NAM
Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève
ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do
để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève
không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp
tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy
lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách
khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.
Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách
tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam
tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ
Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh
tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với
nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ
huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng
những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN
còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân
Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ
Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ
chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn
cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với
Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính
Trung Cộng.
Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN
khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN
chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp
mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu
bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng.
Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài
“chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn
có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và
thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
KẾT LUẬN
Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève,
trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng
quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay
sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960,
tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước
và chống Mỹ cứu nước.
Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève,
xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân
của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu
người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay
đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa
của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN,
chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng
sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng
ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố
gắng vươn tới.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 20-7-2014)
http://anhbasam.wordpress.com/2014/07/21/2783-viec-thi-hanh-hiep-dinh-geneve/#more-136133
No comments:
Post a Comment