Cái Chết Của Một Hàng Tướng: DƯƠNG VĂN MINH : (1916-2001)
Tác giả :
NGUYÊN VŨ VŨ NGỰ CHIÊU
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 9/8/2001, vài bằng hữu điện thoại, e-mail hay fax cho tôi bản tin
ngắn về cái chết của cựu Đại tướng Dương Văn Minh (1916-2001). Tại Pasadena,
tiểu bang California, mà không phải Việt Nam như nhiều
người tưởng nghĩ. Theo báo chí Mỹ, Tướng Minh, 86 tuổi, chết tại bệnh viện Huntington Memorial Hospital tối ngày Thứ Hai 8/8/2001, sau khi bị
té từ xe lăn xuống đất trong một phòng cho mướn (apartment) chiều ngày
hôm trước, Chủ Nhật, 7/8/2001. (Theo một nguồn tin khác, ông Minh chết ngày Thứ
Bảy, 6/8/2001. Tin này có lẽ chính xác hơn).
Còn nhớ năm 1982, khi sang Pháp nghiên cứu lần đầu tiên để sửa soạn viết luận
án, tôi được tin Tướng Minh mới từ Sài Gòn qua Pháp chữa bệnh. Người cho biết
tin này là ký giả Nguyễn Ang Ca, ngày ấy định cư ở Belgium (Bỉ). Anh Ca tiết lộ thêm
rằng theo lời thân nhân Tướng Minh, ông ta đã hoàn tất một tập hồi ký dành
riêng cho cháu ngoại (con ông bà Nguyễn Hồng Đài và Dương [Thị?] Mai), sẽ được
ấn hành sau khi Tướng Minh chết. Trong thời gian nghiên cứu lần thứ hai ở Pháp,
từ 1985 tới 1988, được tin Tướng Minh đã biến mất ở Paris,
“nghe đâu trở lại Việt Nam.”
Bây giờ mới rõ tin ấy sai lầm. Tướng Minh đã âm thầm qua Mỹ định cư, sống với
vợ chồng người con gái.
Việc Tướng Minh “tuyệt tích giang hồ” cũng dễ hiểu. Từ năm 1963, ông Minh trở thành kẻ thù của nhiều hơn một thế
lực chính trị tại Việt Nam.
Nhóm kẻ thù hằn học nhất là
những người ủng hộ và còn tưởng nhớ Tổng thống Ngô Đình Diệm (1955-1963). Cuộc
đảo chính 1/11/1963 không những chỉ mang lại cái chết cho ba anh em nhà họ Ngô,
mà còn khiến nhiều cộng sự viên và nha trảo của chế độ bị tử hình (Phan Quang
Đông, đồ tể miền Trung), tù đày (Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Y, Trần Kim Tuyến,
Nguyễn Văn Hay), tịch thu tài sản, truy nã, săn đuổi, v.. v... Trong khi đó,
Giám mục Nguyễn Văn Thuận, cháu ngoại ông Ngô Đình Khả—hiện đã trở thành Hồng Y
ở Vatican—cũng muốn khôi phục lại thế giá cho
các bậc trưởng thượng của mình, qui tụ tàn dư đảng Cần Lao làm hậu thuẫn chính
trị. Tướng Minh, người đào mộ vùi chôn nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam và gây
nên cảnh tang tóc thê lương của họ Ngô, khó thể được yên lành.
Ngay trong hàng ngũ quân đội nhiều người cũng không muốn “huynh đệ chi binh”
(đúng ra có lẽ phải là “binh chi huynh đệ”) với Tướng Minh. Trung tướng Nguyễn
Khánh tìm mọi cách triệt hạ, khiến Tướng Minh phải lưu vong qua Thái Lan khá
lâu. Thủ lãnh nhóm Young
Turks là Nguyễn Văn Thiệu
(1923-2001) cùng những Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên nhất quyết không cho Tướng
Minh hồi hương để tranh cử Tổng thống năm 1967.
Mãi tới năm 1968, do sự can thiệp của Thủ tướng Trần Văn Hương (1904-1982?), và
giữa cao trào thanh toán phe “Bắc Kỳ” Nguyễn Cao Kỳ-Nguyễn Ngọc Loan, Tướng
Minh mới được về nước. Phía sau đặc ân của ông Hương này là kế hoạch vận động
tinh thần bài Bắc Kỳ từ thời Nam Kỳ tự trị của Nguyễn Văn Thinh-Lê Văn
Hoạch-Nguyễn Văn Tâm-Trần Văn Hữu (1946-1947), đồng thời chuẩn bị dùng ông Minh
làm con cờ thí cho cuộc tranh cử Tổng thống vào năm 1971 của liên danh
Thiệu-Hương. Nhưng giờ chót, sau khi Tướng Kỳ bị loại bỏ vì thiếu người giới
thiệu, Tướng Minh đột ngột rút lui. Cuộc bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ 1971-1975,
đứa con “hợp hiến” thứ hai của Đại sứ “Tủ lạnh” Ellsworth Bunker, bỗng trở
thành “cậu con nuôi” “trưng cầu dân ý” của liên danh “mồ côi” Thiệu-Hương.
Rồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa
Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh
buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn
chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “mất
nước” (sic) lên đầu ông “hàng Tướng” này.
[Những lời thở than, khóc lóc
“mất nước” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá
một chế độ chính trị với “Tổ Quốc” trên trình
độ hiểu biết chữ Việt!]
Cho tới ngày Tướng Minh nhắm mắt,
chẳng mấy ai được nghe Big Minh tâm sự về những tao ngộ đời ông. Tập hồi ký mà
anh Nguyễn Ang Ca “tiết lộ” với tôi thực chăng hiện hữu và bao giờ sẽ được ấn
hành? Tư liệu văn khố Mỹ, Pháp, Nga, Trung cộng cũng chưa mở ra đầy đủ, nhất là
việc Tướng Minh được Quốc Hội cử làm Tổng thống ngày Chủ Nhật, 27/4/1975. Đại
sứ Pháp Jean-Marie Mérillon đã thủ diễn vai trò nào trong màn bi kịch chính trị
và ngoại giao này? Việc phán định công và tội của Tướng Minh hẳn còn nhiều năm
nữa mới đủ sử liệu để suy xét.
Bài này không có ý định phê bình hay
đánh giá Tướng Minh. Chỉ ghi lại những dữ kiện lịch sử tương đối khả tín nhất
để những người nghiên cứu sau này đỡ mất công tra cứu.
PHÂN ĐOẠN I: Tướng
Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hòa
Tướng Dương Văn Minh sinh năm 1916 tại
Vĩnh Long (lại có tin sinh ngày 19/2/1916 ở Mỹ Tho). Thường được biết như
"Big" Minh, để phân biệt với Minh "nhỏ"
(Sylvain Trần Văn Minh, Ki-tô giáo). Ông Minh thuộc loại to lớn so với người
Việt bình thường, cao hơn 1 mét 80 (6 feet), và nặng hơn 90 ki-lô.
Năm 1940, ông Minh gia nhập
quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bị Thủ Dầu Một. Nổi danh là một
lực sĩ chạy đua nước rút, nên được thăng cấp Thượng sĩ. Năm 1946, lên cấp Thiếu
úy. Hai năm sau, lên Trung úy, rồi chuyển qua Quân đội Quốc Gia Việt Nam. Từ đó,
thăng tiến rất nhanh vì Quân đội Quốc Gia đang thành lập, thiếu cấp chỉ huy.
Trong hai năm 1954-1955, khi chỉ huy
Phân Khu Sài Gòn/Chợ Lớn, Đại tá Minh "lớn" đã giúp Thủ
tướng Ngô Đình Diệm bẻ gẫy được cuộc đảo chính của Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh
cùng các tổ chức vũ trang Bình Xuyên và Hòa Hảo (qua các chiến dịch Hoàng Diệu, Nguyễn Huệ, Thoại Ngọc
Hầu). Nhờ vậy, ông Minh từng được ca ngợi là “anh hùng rừng Sát [Sác],” và
vài năm sau đã lên tới chức Trung tướng.
Nhưng sau khi đã dẹp xong mối hiểm họa
giáo phái, Tướng Minh bị thất sủng. Có tin hai anh em ông Diệm-Nhu nghi Tướng
Minh dấu đi một phuy (fut hay
thùng) vàng cùng quí kim tịch thu được của Lê Văn “Bảy” Viễn, thủ lĩnh Bình
Xuyên, ở mật khu Rừng Sác mà không giao nạp cho chính phủ. Nguyên cớ chính là
Tướng Minh chống việc chính trị hóa quân đội theo kiểu Cộng Sản Bắc Việt (hay,
Đài Loan, nếu muốn)—tức bắt các cấp chỉ huy quân đội phải gia nhập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng,
thường gọi tắt làCần Lao. Bởi thế ông Minh chỉ được giao nắm những
chức vị không có quân như Thanh tra quân đoàn, rồi Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành
quân, v.. v... Lòng ghét bỏ ông Minh của anh em ông Diệm-Nhu càng tăng lên khi
Tướng Minh giữ lập trường “trung lập” trong cuộc đảo chính hụt 11/11/1960 của
nhóm Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, v.. v... (Xem Chính
Đạo [ed.], et al., Nhìn lại
biến cố 11/11/1960 [Houston:
Văn Hóa, 1996]) Uy tín Tướng Minh với chế độ cũng khó thể gia tăng khi Trung tá
Vương Văn Đông đề nghị
Tướng Lê Văn Tỵ rồi đến Tướng Minh
làm Bộ trưởng Quốc Phòng chính phủ quân sự chuyển tiếp.(Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, I-C:
1955-1963, tr. 202)
Từ tháng 10/1961, Tướng Minh được một số viên chức ngoại giao Mỹ
đánh giá như có khả năng tạm thay Tổng thống Diệm, hoặc phụ giúp Phó Tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ nắm quyền miền Nam nếu xảy ra việc gì chẳng may cho ông Diệm.(FRUS,
1961-1963, I:409-10) Nhưng ông Minh cũng có khá nhiều kẻ thù. Tướng
Raymond Nguyễn Khánh, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, nuôi hiềm khích cá nhân với
ông Minh từ lâu.(Ibid., I:710) Hiềm khích này có thể bắt nguồn từ xuất thân
binh nghiệp, danh lợi, và sự chia chác không đều chiến lợi phẩm, khi ông Khánh
làm Chỉ huy phó cho ông Minh trong chiến dịch đánh Bình Xuyên. (Xem Phạm Văn
Liễu, Trả Ta Sông Núi,
[Văn Hóa: 2002] tập I, chương IX) Bộ trưởng Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần thì
cho rằng Tướng Minh “chỉ ưa than phiền,” bỏ qua nhiều cơ hội chiến thắng, hoặc
làm những việc kỳ quái như đưa Nhảy dù vào mặt trận bằng quân xa thay vì thả
máy bay, v.. v... (FRUS, 1961-1963, I:530)
Sau khi tuyên bố tình trạng “lâm nguy”
vào mùa Thu 1961, ông Diệm không thay đổi thái độ với Tướng Minh. Khi một số
viên chức Mỹ, kể cả Tướng Maxwell D. Taylor, Tổng Tham Mưu trưởng Liên Quân,
muốn đề nghị Tướng Minh lên chỉ huy quân đội (Ibid., I:80, 372), Tướng
Edward G. Lansdale cực lực phản đối. Theo Lansdale—người nhiệt thành ủng hộ họ
Ngô từ năm 1954, và mùa Thu 1961 được ông Diệm xin đích danh làm cố vấn riêng,
nhưng Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) không chấp thuận—Tướng Minh từng tuyên
bố muốn đảo chính.(Báo cáo ngày 27/12/1961; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427; FRUS,
1961-1963, I:719n2) Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần hay Tướng Paul Harkins, Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Quân Viện [MACV], cũng nghi ông Minh mưu làm đảo chính từ năm 1960.
Ông Diệm luôn luôn nghi ngờ Tướng
Minh. Khi người Mỹ yêu cầu Tướng Minh soạn thảo kế hoạch tấn công chiến khu D
(ở Tây Ninh) để tạo một chiến thắng nào đó, hầu vận động dư luận Mỹ, ông Diệm
ra sức bắt bẻ từng chi tiết. Thí dụ như ông Minh muốn thành lập các chiến đoàn
với cấp tiểu đoàn, ông Diệm chẳng những không chấp thuận mà còn cho người điều
tra phải chăng ông Minh muốn đảo chính. Rồi sai Tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham Mưu trưởng, thông báo cho
ông Minh biết chỉ đồng ý việc sử dụng các đơn vị cấp đại đội.(FRUS,
1961-1963, II:9-10, 24-5) Cuối cùng, ngày 18/7/1962, ông Diệm tiết lộ với
Tướng Harkins quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng
Minh vì “thiếu khả năng.”(Ibid., II:536) Chẳng hiểu quyết định này
liên hệ gì đến kế hoạch tìm giải-pháp-khác-Diệm bắt đầu manh nha từ năm 1960, và được
nghiên cứu ở Oat-shinh-tân từ cuối năm 1961 hay chăng.(Ibid., II:64, 232,
459-60, 598-600) Do áp lực của Mỹ, Tướng Minh vẫn còn được tước “Cố vấn quân
sự.”
I. Cuộc Đảo Chính
1/11/1963:
Năm 1963, ông Minh cùng một số tướng
tá làm đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Vài ba người cho rằng ông Minh đã
“nhận lệnh Mỹ để làm đảo chính.” Tướng Minh còn bị cáo buộc đã ra lệnh thảm sát
anh em ông Diệm-Nhu vào sáng ngày 2/11, trên đường dẫn giải từ nhà thờ “cha
Tam,” Chợ Lớn, về Bộ Tổng Tham Mưu, sau khi họ đã xin đầu hàng.
Tôi sẽ tự hạn chế trong hai vấn đề
trên; và, tránh thảo luận nên hay không
nên đảo chính, đảo chính hay cách mạng, vì những tra vấn
này khó vượt qua khuôn khổ suy luận và phê phán, thuần là trò chơi của trí tuệ
và xúc động.
A. “Big” Minh có
nhận lệnh người Mỹ để đảo chính hay không?
Để tìm hiểu thực chăng Tướng Minh nhận
lệnh Mỹ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, cần lược xét vài dữ kiện sau:
(1) “Big” Minh
thù ghét chế độ từ lâu:
Trước hết, từ lâu, “Big” Minh hơn một lần muốn giết hai ông Nhu-Cẩn
hoặc đảo chính ông Diệm. Không đợi tới ngày Ngoại trưởng Dean Rusk muốn vợ
chồng ông Nhu, và nếu cần, chính ông Diệm, “đi nghỉ mát dài hạn” (từ khoảng
ngày 13/7/1963; VNNB, I-C:
1955-1963, tr. 298, 315), hoặc Đại sứ Henri Cabot-Lodge nhận lệnh Tổng
thống Kennedy giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo ở Nam Việt Nam (tháng
6/1963). Từ tháng 11/1961, ông Minh cùng các Tướng Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm và Đại tá Phạm Văn Đổng ít nhiều dính líu
đến một dự định đảo chính.(FRUS, 1961-1963, I:682; Báo cáo ngày
27/12/1961; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427) Chính anh em ông Diệm cũng biết điều
này, và cử người điều tra, theo dõi, rồi tước đoạt binh quyền của ông Minh.
Cho tới năm 1963, sở dĩ ông Minh chưa
ra tay vì màng lưới bảo vệ ông Diệm của người Mỹ—sự bảo vệ mà cựu hoàng Bảo Đại
từng cay đắng gọi là “mù lòa.” Tướng Minh và các chiến hữu chỉ muốn người Mỹ đừng ngăn cản,
hay không mật báo cho anh em ông Diệm-Nhu
biết kế hoạch đảo chính của mình. Việc Kennedy cho phép Đại sứ Cabot-Lodge toàn
quyền hành động, và ông Lodge (cũng một giáo dân Ki-tô Vatican
như Kennedy và anh em ông Diệm) quyết
định không thể làm việc với ông Diệm được nữa, chỉ mở ra cho Tướng Minh và những
người muốn thay đổi chế độ cơ hội để hành động.
Hơn nữa, là một Phật tử, Tướng Minh
(cũng như các ông Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, v.. v...) không thể buông xuôi hai tay
làm ngơ trước cảnh anh em ông Diệm ngược đãi Phật Giáo, lùng bắt sinh viên học
sinh, vu cáo đối lập là Cộng Sản. Bề ngoài, ông Diệm ra vẻ rất công bình, tuyên
bố “sau lưng Hiến Pháp còn có tôi,” đồng ý thỏa đáp các nguyện vọng của Phật
giáo (Tuyên cáo chung ngày 16/6/1963 giữa ông Diệm và Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết), nhưng không thực thi những điều hứa hẹn. Ngược lại, ngầm thả lỏng cho
(hoặc không kiểm soát nổi) hai vợ chồng Ngô Đình Nhu-Trần Thị Lệ Xuân đẩy Phật
Giáo đến chân tường. Trong những buổi đàm thoại với viên chức Mỹ và Pháp thì
đặt điều vu cáo Phật giáo bằng những luận cứ mà một người có óc suy luận trung bình và lương
thiện tối thiểu cũng
không dám phát biểu.(VNNB, I-C: 1955-1963) Nên chẳng phải ngẫu nhiên mà
đầu năm 1973, khi sắp lìa đời tại bệnh viện Grall, Thượng tọa Thích Thiện Hoa
ân cần trối trăng với hàng tăng lữ đừng bao giờ quên công đức của Đại
tướng Minh với Phật giáo trong mùa pháp nạn 1963! (Tôi nghĩ Hòa
thượng Thích Tâm Châu, một lãnh tụ tranh đấu đầu tiên ở Sài Gòn, cũng đồng ý
với nhận xét trên).
Tóm lại, ghép tội (đúng hơn là vu cáo)
ông Minh “nhận lệnh Mỹ” để làm đảo chính không đúng, hoặc do thiếu hiểu biết,
hoặc, bất chấp sự thực lịch sử: Giữa
anh em ông Diệm-Nhu và Tướng Minh chẳng còn chút thiện cảm nào để mất.
(2) Liên hệ giữa
Tướng Minh và ông Diệm:
Có người còn lên án ông Minh và phe
nhóm đã “phản bội” ông Diệm. Cáo buộc này quá vội vã, không đúng sự
thực, nếu chẳng phải bất chấp sự thực. Giữa ông Diệm và ông Minh chẳng hề có
tình đồng chí cũ, hay nghĩa thày-trò, hiểu theo nghĩa cấp chỉ huy và thuộc hạ.
Liên hệ giữa Thủ tướng Diệm và Tướng Minh chỉ khởi sự từ ngày ông Diệm về nước
vào hạ tuần tháng 6/1954. Nó là sự nối kết quyền lợi, do Mỹ dàn xếp, để loại bỏ
Tướng Nguyễn Văn Hinh cùng phe thân Pháp. Hai người là cộng sự viên, hơn cấp
chỉ huy và người tùy tùng. Ông Diệm là lá bài chính trị của người Mỹ, trong khi
Tướng Minh là một trong những lá bài quân sự. Nói cách khác, hai ông Diệm và
Minh cùng “làm quan”
cho người Mỹ, hầu biến miền Nam vĩ tuyến 17 thành một “nước” (không hề
qui định hay dự trù trong Hiệp ước Geneva ngày 20-21/7/1954). Văn hoa hơn, miền
Nam trở thành “tiền đồn chống Cộng của Thế giới Tự do,” dù dân miền Nam (cũng
như miền Bắc) chỉ có quyền “tự do” duy nhất là được đói khổ, đàn áp, tù đầy,
tra tấn dã man, đẩy ra mặt trận, và chết chóc.
Bản hiệu triệu của ba ký giả Chu Tử,
Hiếu Chân và Từ Chung trên tờ Ngôn
Luận, số đặc biệt chào mừng cách mạng thành công ra ngày 4/11/1963—trích
lại trên bán nguyệt san Bách
Khoa (số 165, ngày
15/11/1963, tr. 93) của ông Huỳnh Văn Lang, một cựu lãnh tụ Cần Lao—phần nào
nói lên sự thực này: Ba nhà báo Chu Tử, Hiếu Chân và Từ Chung tự trách đã “đánh
đĩ tâm hồn, cam tâm làm gia nô cho họ Ngô trong chín năm qua.” Ngay đến báo Sài Gòn Mới của Bà Bút
Trà, có liên hệ với Bộ trưởng Canh Nông Lê Văn Đồng, cũng than phiền rằng “luôn
luôn bị áp bức, khủng bố,” “[h]àng ngày phải chịu trăm chiều tủi nhục,
bắt buộc phải viết những điều trái ngược với lòng mình, để hoan hô những cái
điêu ngoa, giả dối, tàn ác, bất nhơn của gia đình họ Ngô.” (Bách Khoa,
số 165 [15/11/1963], tr. 93-4; trích trong VNNB,
IC: 1955-1963 [2000], tr.
391)
(3) Bản chất sự
liên hệ giữa Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm.
Cho tới hiện nay, vì lý do nào đó, vẫn
chưa ai nói lên được bản chất sự liên hệ giữa Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm. Sự im
lặng hay thiếu hiểu biết này gây ra nhiều ngộ nhận trong việc diễn giải các
biến cố lịch sử. Phe Cộng Sản thường dùng chiêu bài tuyên truyền quen thuộc,
lên án chính sách Mỹ ở Việt Nam
là “tân thực dân” [Neo-colonialism], và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là
“bù nhìn” [puppet regime]. Lối gọi tên này không chỉnh. Tài liệu Liên
sô Nga, Trung Cộng, và ngay chính tài liệu Cộng Sản Việt Nam đã tiết lộ rằng vị
thế chiến lược quốc tế của chế độ “cách mạng xã hội chủ nghĩa” tại miền Bắc
Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975 chẳng sáng sủa gì hơn miền Nam. Thực ra, Hà
Nội còn chịu cảnh một cổ hai tròng: chẳng những nằm trong quĩ đạo quốc tế Cộng
Sản của Nga, mà còn bị bóp cổ, chẹn họng bởi điều mà sử quan Cộng Sản Việt Nam
có thời gian gọi là “chủ
nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn” của Trung Cộng.
[Xem, chẳng hạn, “Sách
Trắng” ngày 25/9/1979 của Hà Nội; Trung
Quốc từ Mao đến Đặng, Văn Trọng chủ biên (Hà Nội: 1984); Phê phán chủ nghĩa bành trướng và
bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, do Phạm Như Cương
chủ biên (Hà Nội: 1979); Chống
chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn (Hà
Nội: Tạp chí Cộng Sản,
1982); hay, những tựa sách khác in trong thập niên 1980.
Nực cười là một thời các tư tưởng gia
Việt Cộng như Hồ Chí Minh, Trường Chinh hay Tố Hữu, đích thân hay chỉ thị thuộc
hạ “gân cổ bắc loa mồm” ca tụng thứ liên hệ quốc tế vĩ đại này bằng những danh
từ thống thiết nhất như “môi hở, răng lạnh,” “đời đời nhớ ơn,”
v.. v... Phía sau hậu trường thì cắt đất xin quân viện để đánh chiếm miền Nam.]
Phần Việt Nam Cộng Hòa thích gọi Liên
bang Mỹ là “Đồng Minh” và ngược lại. Nhưng danh xưng chính xác hơn là quốc gia bảo trợ và chế
độ vệ tinh. Mối liên hệ ông
chủ- đầy tớ này phản ảnh rõ
ràng qua tài liệu văn khố Mỹ, hàng trăm tác phẩm nghiên cứu và hàng ngàn bài
báo xuất bản tại Mỹ từ năm 1956 tới 1975, nếu chẳng phải còn kéo dài tới ngày
nay. Người Mỹ, và cả người Pháp trước đó, chỉ coi người bản xứ Đông Dương như
công cụ chống Cộng hay lính đánh thuê, trong một cuộc chiến “ủy thác” [proxy
wars] để tiết kiệm xương máu công dân Mỹ.
Với vị thế bảo trợ, từng khai sinh và nuôi
dưỡng chế độ Việt Nam
Cộng Hòa, chính phủ Mỹ thường bị kết tội, dù đúng hay sai, là đã đứng sau mọi
biến cố quan trọng tại Việt Nam, từ những cuộc tranh đấu của các đảng phái, tôn
giáo, phe nhóm, tới “thay ngựa giữa dòng” v.. v... Thực ra, người
nghiên cứu sử nghiêm túc về sự can thiệp của Mỹ không thể không liên tưởng đến
chính sách “cơ mi” mà các triều đình phong kiến Trung Quốc khi
xưa đã áp dụng: Cho tới năm
1960, người Mỹ chỉ muốn đưa ra những chính sách đại cương, và cử cố vấn theo
dõi việc thực hành của giai tầng trung gian bản xứ. Bởi thế, người Pháp và
rồi anh em ông Diệm được chính phủ Dwight D. “Ike” Eisenhower (1953-1961) cho
hưởng những quyền hành rộng rãi trong khi thực thi chiến lược hoàn cầu chống
Cộng và ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam
á. Nhưng cơ quan tuyên truyền của Mỹ, do nhu cầu chính trị, tô hồng chuốt lục
cho ông Diệm thành Chí Sĩ, lãnh tụ, “bao năm từng lê gót quê người” nên ông
Diệm ngỡ tưởng mình quả thực là Chí Sĩ, lãnh tụ vĩ đại—quên đi cái dĩ vãng của
một gia đình ba thế hệ trung gian bản xứ phục vụ quân xâm lược Pháp từ buổi đầu
cho tới phút chót; bản thân từng man khai lý lịch để làm quan cho Pháp càng sớm
càng tốt (nếu tin được lời ông Ngô Đình
Luyện giải thích với tác giả); ngoài mặt “chống Pháp” mà bề trong thú nhận Bảo
hộ Pháp là “bát cơm dòng họ Ngô”; ngụy tạo thành tích “từ quan chống Pháp” mà
thực chất chỉ là cuộc tranh giành quyền lực với nhóm trung gian bản xứ khác,
đang lên, tiêu biểu bằng ông Phạm Quỳnh.(Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn,
1883-1945, 3 tập [Houston: Văn Hóa, 1999-2000], tập III).
[Tôi vẫn nghĩ nếu gọi ông Diệm là
người yêu nước, phải tôn xưng ông Phạm Quỳnh làm nhà đại ái quốc. Sự đóng góp
của ông Phạm Quỳnh cho đất nước Việt Nam về giáo dục và văn học vượt xa
tội hợp tác với Pháp. Riêng gia đình họ Ngô, ngoài các tội hình sự của Ngô Đình
Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, còn vi phạm
nhiều tội ác chống nhân quyền, mà chẳng có đóng góp gì ngoài hành động biến
Ki-tô giáo thành kẻ thù của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài,
v.. v... trong một thời gian dài. (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam
Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, tái bản lần 1 (Houston: Văn Hóa, 2000).]
Nhưng từ năm 1957, chế độ Diệm bắt đầu bộc lộ nhược điểm căn bản của
nó. Chống đối nổi lên khắp nơi, trong mọi giai tầng xã hội. Cuộc ám sát hụt ông
Diệm tại Hội chợ Ban Mê Thuột năm 1957 mới chỉ là dấu hiệu tiên khởi. Trong khi
đó, anh em ông Diệm ngày thêm kiêu ngạo, tự cô lập với quần chúng, xa lánh dần
cộng sự viên cũ. Bất cứ một chống đối nào—dù chỉ trong khuôn khổ muốn chân
thành hợp tác—đều bị coi như nguy hiểm cho chế độ, và bị anh em ông Diệm-Nhu
coi như chống đối chính cá nhân mình. Trường hợp Y sĩ Trần Văn Đỗ (chú ruột
Trần Thị Lệ Xuân, vợ ông Nhu), Nguyễn Tăng Nguyên (người theo ông Diệm về nước
năm 1954), Luật sư Nguyễn Hữu Châu (anh rể Lệ Xuân), hay ông Vũ Văn Thái (Tổng
Giám đốc Ngoại viện), cựu Thủ hiến Trần Văn Lý, Luật sư Lê Quang Luật, Y sĩ Phạm
Hữu Chương chỉ là dăm thí dụ được nhiều người biết đến. Bản tuyên cáo tháng
4/1960 của 18 trí thức, nhân sĩ (thường được biết như Tuyên cáo Caravelle; Gravel,
I:316-21), hay cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 của nhóm Đại tá Nguyễn Chánh
Thi cho thấy sự bất mãn chế độ đã lan tràn từ giới trí thức thành thị tới hàng
ngũ quân đội, xương sống của chế độ.
Trong khi đó, Cộng Sản Bắc Việt ngày
một ưu thắng trong kế hoạch nhuộm đỏ miền Nam. Nguyên từ năm 1956, dưới áp
lực của chiến dịch Diệt Cọng và Tố
Cọng, nhiều cán bộ Cộng Sản được gài lại miền Nam đã phải rút ra chiến khu, công
khai chống lại chế độ Diệm bằng vũ lực. Do nhu cầu sinh tồn, cán bộ Cộng
Sản liên kết với một số tàn
quân giáo phái và Bình Xuyên—với sự trợ giúp của vài tổ chức lưu vong ở Pháp như
Trần Văn Hữu, Trần Đình Lan, Lê Văn Thu, Hồ Thông Minh, Phạm Huy Cơ, v..
v...—dưới chiêu bài giải phóng miền Nam. Tới năm 1959, sau khi đã đồng
ý cắt đất cho Bắc Kinh để xin quân viện, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn gửi quân xâm
nhập miền Nam. Khởi đầu là tái tổ chức căn cứ, rồi khủng bố, ám sát ở vùng nông
thôn hẻo lánh, sau đó tiến lên cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh.
[Năm 1958, 193 viên chức
hành chính và cảm tình viên bị VC giết hại; năm 1959, 239 nạn nhân; trong sáu
tháng đầu năm 1960, tổng số nạn nhân lên tới 780 người. Số người bị bắt cóc
tăng từ 236 người năm 1958, lên 344 người năm 1959, và 282 người trong 6 tháng
đầu năm 1960. (FRUS, 1958-1960, I:539n5). Nhưng nhiều chuyên viên thế
giới vẫn khẳng quyết rằng cuộc chiến tại miền Nam là “nội chiến” giữa các phe
phái đối nghịch nhau].
Mùa Thu năm 1961—phần vì tình hình hỗn
loạn ở Lào, quân CSBV chiếm cứ Tchépone; phần vì một chuỗi thiệt hại về quân sự
trong hai tháng 9-10/1961, đặc biệt là cuộc thất thủ tỉnh ly Phước Thành ngày
18/9/1961 (khiến tỉnh trưởng bị bêu đầu, phó tỉnh trưởng và 10 công chức khác
thiệt mạng); tiếp nối bằng cái chết bí mật ngày 1/10/1961 của Đại tá Hoàng Thụy
Năm, đại diện VNCH trong ổy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến [ICC]—ông Diệm ban
hành tình trạng “lâm nguy” (Luật 54/21 ngày 18/10/1961), tập trung mọi quyền
hành còn sót lại vào dinh Độc Lập, biến cơ quan dân cử và tư pháp thành vật
trang sức cho chế độ.
Nhưng tình hình
chẳng khả quan hơn. Ngoài mặt trận, vào giữa năm 1962, an ninh đã ở mức báo
động đỏ. Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam [MT/GPMN]
chính thức hoạt động từ khoảng mùa Xuân 1962, như một cánh tay chính trị ngoại
vi của Bắc Việt, để cuộc chiến có cái bề ngoài “nội chiến” mà các chuyên viên
thế giới ưa thích diễn tả.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 248-50) Trong nội
bộ, tin đồn đảo chính lưu truyền khắp nơi. Ngày 27/2/1962, hai phi công Phạm
Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đánh bom Dinh Độc Lập, nhưng không thành công trong
việc tiêu diệt họ Ngô.
Nguy hiểm hơn nữa là giao
tình giữa ông Diệm và Mỹ ngày một xấu đi. Những lời khen ngợi ông Diệm như “người
của phép lạ” đã lạnh tắt dư âm. Từ năm 1957-1958, viên chức Mỹ bắt đầu tố
cáo chế độ “Cảnh sát trị” [police state], cùng những vi phạm nhân quyền khác ở
miền Nam —những cáo buộc với chứng cớ quá hiển nhiên đến độ Lansdale phải vụng
về bào chữa: Đảng Cần Lao cũng như chế độ miền Nam là sản phẩm
của Mỹ; tự lúc khai sinh nó đã độc tài, cách nào trách nó không dân chủ! Trong
khi đó, anh em ông Diệm không còn hoàn toàn tin tưởng vào Mỹ nữa. Những lời chỉ
trích trên báo chí Tây phương, rồi đến lời bàn tán “Họ Ngô phải ra đi” [The
Ngos must go] của các viên chức Mỹ trẻ, và nhất là cuộc đảo chính hụt ngày
11/11/1960 khiến anh em ông Diệm hoài nghi sự ủng hộ của Mỹ. Chỉ một việc xin
đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào chiếm phi trường Tân Sơn Nhất để dẹp đảo chính
mà Đại sứ Elridge Durbrow cũng không chấp thuận. Lại còn áp lực hai bên phải
hòa giải, thương thuyết. Nên ông Diệm chẳng cần bận tâm đến công lao của
Durbrow và trưởng lưới CIA “Bill” Colby—ngăn chặn quân Nhảy Dù đánh thẳng vào
Dinh Độc Lập, hay pháo của phe đảo chính nã vào Dinh Độc Lập và thành Cộng
Hòa—mà chúi mũi dùi vào những nhân vật như Miller, Carver, v.. v... bên cạnh
nhóm đảo chính. Họ Ngô công khai tuyên bố “có bàn tay lông lá” phía sau cuộc
đảo chính trên. (Theo tin đồn của chế độ Diệm, Luật sư Hoàng Cơ Thụy được Mỹ
cho vào bao đựng văn thư đưa trốn khỏi nước)
Thực ra, từ năm 1959 người
Mỹ mới bắt đầu chú ý nhiều hơn đến Việt Nam. Một trong những lý do là tình
hình Lào ngày thêm rối loạn. Trong khi đó, Hà Nội công khai tuyên bố chủ trương
“thống nhất đất nước” bằng võ lực. Dẫu vậy, phải tới thời Kennedy, Mỹ mới bắt
đầu leo thang sự can thiệp. Chiến lược hoàn cầu của Kennedy phần nào thay đổi
so với chính sách của người tiền nhiệm: Kennedy muốn giành lại ưu thế về quân
sự, chính trị và ngoại giao với Liên Sô Nga sau các biến cố phi thuyền Sputnik,
phi cơ thám thính U-2, hay Cuba.
Kennedy quyết định đương đầu với sách lược “chiến tranh giải phóng quốc gia”
của điện Krem-li bằng mọi giá. Xương sống của chủ thuyết Kennedy là kế hoạch
chống phản loạn (Counter-Insurgency Plan, viết tắt là CIP; thường được
các tác giả Cộng Sản gọi là chiến tranh đặc biệt).
Trước viễn ảnh suy sụp của chế độ
Diệm-Nhu, chính phủ Kennedy bỏ chính sách cơ mi cũ, muốn can thiệp mạnh hơn.
Chưa làm lễ nhiệm chức, Kennedy đã phái Tướng Lansdale qua Sài Gòn từ ngày 2
tới 14/1/1961 để dò xét tâm ý ông Diệm hầu thiết lập một kế hoạch riêng cho
Việt Nam.
Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson, Tướng
Maxwell D. Taylor, kinh tế gia Eugene E. Staley. Ngày 22/11/1961, Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia [HĐ/ANQG] Mỹ phê chuẩn Nghị quyết NSAM 111 về Việt Nam. Nghị quyết
mang tên “Giai đoạn đầu của Kế hoạch Việt Nam” này dựa trên tờ trình của Bộ
trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara và Ngoại trưởng Dean Rusk ngày
11/11/1961—chỉ gạch bỏ lời cam đoan rằng Mỹ sẽ can thiệp cho tới chiến thắng
cuối cùng. Mỹ quyết định sẽ giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc nổi dạy của
“Việt Cộng” bằng mọi cách, ngoại
trừ việc đưa quân chiến đấu vào đây. Kế hoạch này gồm nhiều điểm, từ quân
sự tới kinh tế, chính trị, và bình định. Về quân sự, Mỹ sẽ tăng cường số cố
vấn, thử nghiệm những kỹ thuật chiến tranh mới (như trực thăng vận, thiết vận
xa, thuốc khai quang), v.. v... Sau đó sẽ nghiên cứu việc đưa quân chiến đấu vào
miền Nam, nếu cần.
[Tháng 9/1963, Ngoại trưởng Rusk vẫn
khẳng định Mỹ không muốn đưa quân chiến đấu vào miền Nam để tránh rơi vào tình
trạng tương tự như Pháp trước đó, dù Mỹ cũng không muốn bỏ rơi miền Nam.(FRUS,
1961-1963, IV:185)]
Về phương diện hành chính và
chính trị, Mỹ ra sức khuyến khích ông Diệm thay đổi lề lối cai trị, cho phép
những người ngoài đảng Cần
Lao tham gia sinh hoạt chính
trị để tạo thế đoàn kết quốc gia.
Về phương diện quân sự, ông Diệm rất
vui vẻ đón nhận quân viện và chính sách mới của Mỹ. Chẳng hạn như từ ngày
15/6/1961, ông Diệm luôn thúc dục Mỹ phải thực hiện càng sớm càng tốt việc sử
dụng thuốc khai quang để phá hoại mùa màng trong mật khu Việt Cộng. Chỉ có hai
trở ngại là vấn đề lập một Bộ Tư lệnh hỗn hợp Mỹ-Việt (sau Mỹ bỏ qua); và vấn
đề cho quân đội được quyền tự trị.
Về phương diện chính trị, anh em ông
Diệm-Nhu cương quyết chống việc mở rộng chính phủ. Thái độ ông Diệm với cố vấn
dân sự Mỹ ở các tỉnh cũng rất lạnh nhạt (như không cho cố vấn ở chung với Tỉnh
trưởng; ngầm khuyến khích bất hợp tác).
Về phương diện bình định nông thôn—một
lãnh vực ông Diệm không mấy chú tâm trước năm 1960—ông Nhu đưa ra hai kế
hoạch Khu Trù Mật và ấp Chiến lược. Tự hào đây là quốc sách cứu vãn miền Nam,
anh em ông Diệm-Nhu thường không hài lòng khi thấy báo chí Mỹ chỉ trích chiến
lược này nói riêng, và chế độ độc tài, gia đình trị của họ Ngô nói chung. (Báo
chí và chuyên viên về Việt Nam
thỉnh thoảng nhắc đến hai tiếng “giáo phiệt Ki-tô”—tức dùng thiểu số Ki-tô cai
trị một quốc gia đại đa số dân chúng không theo đạo này)
(4) “Phiến Cộng”
trong Dinh Gia Long:
Đáng ngại hơn nữa, và đây là thảm kịch
của họ Ngô nói riêng, toàn dân quân miền Nam nói chung, qua kế hoạch “chiêu
hồi,” anh em ông Diệm bị lôi cuốn dần vào cái bẫy sập “hòa bình, thống nhất,
trung lập” của Hà Nội, với sự cổ võ của chính phủ Charles de Gaulle. Bẫy sập
này bắt đầu mở ra trước hoặc sau bài chúc Tết của Hồ Chí Minh vào dịp đầu năm
1962—Hồ ngỏ ý mong mỏi thương thuyết “để hòa bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ
sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ [Geneva, 20-21/7/1954] qui định.” (Báo cáo số
41/AS, Roger Lalouette gửi Couve de Murville; AMAE [Paris], CLV, SVN, hộp 91;
Nhân Dân, 1/1/1962; Hồ Chí
Minh Toàn Tập, 1989, 9:272) Vì thế, có tin ông Hồ đã gửi cho ông Diệm một
chậu đào “vui Xuân” Nhâm Dần (1962)—chậu đào rồi sẽ tưới bằng máu họ Ngô.
[Theo Tướng Đỗ Mậu, ông Diệm
khoe chậu đào này do bà con ngoài Bắc gửi tặng. Một nhân chứng khác, ông Cao
Xuân Vỹ, cho rằng Hồ gửi chậu đào trên vào dịp Tết Quí Mão, 1963]
Trọn năm 1962 và đầu năm 1963, Hà Nội
tiếp tục tung ra những màn hỏa mù ngoại giao “hòa bình, thống nhất trên cơ sở
Hiệp định Geneva,” qua bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Văn Vịnh, chuyến viếng
thăm India của Y sĩ Phạm Ngọc Thạch, và đặc biệt, những cuộc tiếp xúc bí mật
với anh em ông Diệm-Nhu. Vào tháng 5/1963, trong bài phỏng vấn của Alfred
Burchett trên tờ báo chuyên về ngoại giao của Liên Sô Nga, New Times [Tân Thời Báo], Hồ còn lập lại đề nghị
này như để khuyến khích họ Ngô.
Đại sứ Pháp Roger Lalouette—qua thư
riêng của ông Diệm xin Paris cứu nguy vào mùa Thu 1961, và kế hoạch “trung lập
hóa” Đông Dương của Tổng thống de Gaulle—đã hướng dẫn anh em ông Diệm lạc dần
khỏi vòng quĩ đạo che chở và dung dưỡng của Mỹ. Giáo hoàng John XXIII
(1958-1963), người từng trao đổi quà tặng với Nikita Khruschev nhân dịp Giáng
Sinh, cũng ít nhiều tiếp tay anh em ông Diệm-Nhu trong việc “ve vãn” [flirting]
Cộng Sản này (với niềm tin rằng Hồ Chí Minh chủ hòa, và Trung Cộng chủ chiến).
Ngoài ra, cũng cần đề cập đến không khí hòa hoãn đặc biệt giữa Mỹ và Nga vào
cuối năm 1962, đầu năm 1963. Tháng 12/1962, Khruschev đề nghị hai siêu cường
nên hạn chế cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử. Ngày 10/6/1963, Kennedy đáp ứng
bằng bài diễn văn tại Đại học American ở Kentucky,
kêu gọi tiến về một nền hòa bình thế giới. Khruschev hết lời ca ngợi, và ngay
sau đó, đại diện Mỹ, Bri-tên cùng Nga bắt đầu thương thuyết về vấn đề hạn chế
thí nghiệm bom nguyên tử. Ngày 5/8/1963, Hiệp ước ngưng thí nghiệm nguyên tử
trên không gian, trong khí quyển và dưới nước ký tại Mat-scơ-va.
Chính ông Nhu không dấu diếm người Mỹ
những cuộc tiếp xúc bí mật với cán bộ Cộng Sản trong khuôn khổ quốc sách “chiêu
hồi” (như ý định xin về hàng của một Đại tá Cộng Sản và 3 tiểu đoàn ở Lào). Có
lần, ông Nhu đã kiêu hãnh chỉ vào chiếc ghế trước mặt, khoe với viên chức tình
báo Mỹ rằng một cán bộ cao cấp Việt Cộng vừa ngồi ở đó.
[Cho tới nay vẫn chưa có tài
liệu rõ ràng về những đầu mối bản xứ giúp ông Nhu ve vãn Việt Cộng. Có người
cho rằng Mã Tuyên, một lãnh tụ Hoa kiều ở Chợ Lớn, là đầu mối quan trọng. Lại
có tin Albert Phạm Ngọc Thuần [sau đổi thành Thảo], cựu Giám đốc Mật vụ của Ủy
Ban Hành Chính Kháng chiến Nam Bộ (1947-1949), và lúc đó giữ chức Thanh tra ấp
Chiến lược, với cấp Trung tá, là đầu mối khác. Ngoài ra, phải kể Vũ Ngọc Nhạ
của cụm tình báo chiến lược A-22, và các ổ trí vận ở Sài Gòn dưới quyền Trần
Bạch Đằng, kể cả em gái Bộ trưởng Trần Lê Quang, v.. v...]
Đây có lẽ là lỗi lầm chiến lược lớn
nhất của anh em ông Diệm. Sở dĩ ông Diệm được đưa về làm Thủ tướng vào tháng
6/1954, hay viện trợ và ảnh hưởng chính trị Mỹ giúp khai sinh và dung dưỡng chế
độ Việt Nam Cộng Hòa suốt hơn 8 năm sau Hiệp định Geneva, không nhắm mục đích
cho ông Nhu bắt tay với Cộng Sản Hà Nội, hoặc, theo lời Ngoại trưởng Rusk,
không để bà Nhu “vỗ tay reo hò” khuyến khích việc “nướng thịt sư.” Dù Đại sứ
Frederick E. Nolting và Trưởng lưới Tình báo Trung ương (CIA) tại Sài Gòn, John
H. Richardson, ngoảnh mặt làm ngơ—với hy vọng ông Nhu không bán đứng miền Nam cho
Hồ—nhiều viên chức ở Oat-shinh-tân không dấu bất bình. Họ lo ngại rằng một ngày
nào đó vợ chồng ông Nhu, mà ảnh hưởng đang khiến ông Diệm lu mờ dần, sẽ đòi hỏi
Mỹ triệt thoái khỏi miền Nam, thành lập một chính phủ liên hiệp với Hà Nội hay
MT/GPMN. Hai viên chức ngoại giao có tiếng nói mạnh nhất là W. Averell Harriman
và George W. Ball của Bộ Ngoại Giao, từng nổi danh về lập trường chống Cộng. Họ
nỗ lực vận động bắt vợ chồng ông Nhu cùng Tổng Giám mục Thục rời nước.
(5) Thái độ giới
truyền thông Mỹ:
Trong khi đó một nhóm ký giả trẻ như
Neil Sheehan, Malcom Brown, David Halberstam, v.. v... được Trung tá Paul Vann,
cùng viên chức trong Dinh Gia Long (Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần), và cán
bộ tình báo chiến lược Bắc Việt (như Vũ Ngọc Nhạ, Pham Xuân ẩn) cung cấp tin tức mật—do
những lý do và mục đích khác nhau—tìm cách trình bày chiến cuộc ở miền Nam và
gia đình họ Ngô dưới những góc cạnh bi quan nhất. Sợi giây xuyên suốt qua những
bài tường thuật của họ là trận chiến đang thua và Mỹ không thể thắng trận với
anh em họ Ngô. Theo họ, Nam Việt Nam đang trở thành một thứ “bãi lầy” hay “cát
lún,” nghĩa địa của uy tín và danh dự của siêu cường Mỹ. (“Chiến thắng” Ấp Bắc
vào đầu năm 1963 chỉ là một thí dụ) Qua
những cuộc phỏng vấn Ngô Đình Nhu và nhất là Lệ Xuân, họ biến vợ chồng Nhu-Lệ
Xuân thành một thứ quái vật đen của chế độ. Vì không thích bị chỉ trích, họ Ngô
tìm đủ cách phản ứng. Từ áp lực Tòa Đại sứ Mỹ can thiệp, tới sử dụng tờ nhật
báo Mỹ ngữ ở Sài Gòn, Times
of Vietnam [Việt Nam Thời
Báo], hay vài ký giả nổi danh như Margueritte Higgins, Joseph Alsop, v.. v...
để trả đũa. Rồi dần dần đến những biện pháp kiểm duyệt, trục xuất, và ngay cả
bạo động. (Xem David Halberstam, The
Making of A Quagmire (New York: Random House, 1965; Neil Sheehan, The Bright Shining Lie (New York: Vintage Books, 1988), tr. 269-371)
(6) Ông Diệm mất
dần bạn cũ:
Từ năm 1962, nếu không phải sớm hơn,
người Mỹ bắt đầu nghiên cứu một giải-pháp-khác-Diệm.(VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 256-8) Ngay những người thân cận cũ của ông Diệm trong nhóm
Bạn Mỹ của Việt Nam [American Friends of Vietnam] như Giáo sư Wesley
Fishel, Joseph Buttinger, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield (1903-2001), Lãnh tụ
Khối đa số Thượng viện, không dấu sự hoài nghi khả năng của anh em ông Diệm.
Cuối năm 1962, Mansfield còn yêu cầu Kennedy tái
duyệt xét chính sách của Mỹ, tức nghiên cứu việc rút khỏi miền Nam trước khi
quá trễ. (Báo cáo ngày 18/12/1962, FRUS,
1961-1963, II:Tài liệu 330; VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 239-40, 268-9)
(7) Chiến dịch
chống Mỹ của Ngô Đình Nhu:
Như một phản ứng dây chuyền, hai anh
em ông Diệm-Nhu bèn vận hết sức lực tự cứu. Một mặt, ông Nhu xúc tiến mạnh hơn
việc móc nối Cộng Sản, qua trung gian của Pháp và Khâm sứ Vatican Salvadore d’
Asta. Trong bóng tối, ông Nhu bí mật gặp Phạm Hùng, Phó Thủ tướng đặc trách vấn
đề thống nhất, ở vùng Bà Rịa.(William Colby, Lost
Victory, 1989, tr.103; Chính Đạo, Tôn
Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 [1994], tr. 50-3) Mặt khác, ông
Nhu và vợ (Lệ Xuân) mở chiến dịch bài Mỹ. Chua ngoa nhất, dĩ nhiên, là Lệ Xuân.
Ngay Đại sứ Nolting—người nhiệt thành ủng hộ ông Diệm—từng đe dọa sẽ rời khán
đài danh dự trong Lễ Hai Bà Trưng năm 1963, nếu Lệ Xuân đả kích Mansfield. Hoặc, từ chối
lên Đà Lạt nghỉ mát với Bà Nhu vào dịp cuối tuần vì những lời tuyên bố vô trách
nhiệm của Phong Trào Phụ Nữ
Liên Đới do Lệ Xuân làm chủ
tịch.
(8) Mùa Phật Đản
đẫm máu:
Tiếp đó, một chuỗi biến cố trầm trọng
xảy ra. Nẩy lửa nhất là cuộc nổi dạy của Phật giáo trong dịp lễ Phật đản
8/5/1963. Khởi đi từ “khẩu lệnh” cấm treo cờ Phật giáo của ông Diệm, cuộc chống
đối của tăng ni, Phật tử và quyết định đàn áp của chế độ đưa đến cuộc thảm sát
man rợ trước đài phát thanh Huế (khiến 9 người thiệt mạng, kể cả hai thiếu
nhi—một thứ tội sát nhân (murder), vi phạm luật chiến tranh (war
crimes) và vi phạm nhân quyền (crimes against human rights) mà
Liên Hiệp Quốc lên án.
[Thoạt tiên ông Diệm biện
bạch với viên chức Mỹ rằng có bàn tay khủng bố của Cộng Sản ném lựu đạn.(Chính
Đạo, VNNB, I-C:
1955-1963, tr. 285, 286) Mãi đến chiều ngày 8/6/1963, ông Diệm mới chịu nhìn
nhận rằng cấp dưới đã báo cáo sai lạc là Cộng
Sản ném lựu đạn.(Ibid., tr. 293) Nhưng những người tưởng nhớ họ Ngô
vẫn khăng khăng rằng các nạn nhân đã chết vì một trái lựu đạn “bí mật” của Cộng
Sản. Tác giả Cao Thế Dung thì nói đến một trái mìn đặc biệt của nhân viên tình
báo Mỹ Scott nào đó.
Cho tới năm 2002, vài người còn nhắm
mắt lại mà nguyền rủa quả lựu đạn hay trái mìn của “Cộng Sản” hoặc “tình báo
Mỹ” không hề hiện hữu trên!]
Dù biết và thú nhận thuộc hạ
báo cáo sai lạc, ông Diệm vẫn cho lệnh Đại tá Đỗ Cao Trí “tái lập trật tự” ở
Huế, và Đại tá Lâm Văn Phát “ổn định tình hình” ở Đà Nẵng. Sau đó, phong tướng
cho Đại tá Trí để thay Tướng Lê Văn Nghiêm chỉ huy vùng I. Thuộc hạ các ông
Cẩn-Thục tự do sử dụng cảnh sát, công an, mật vụ, Nhảy Dù, cảnh sát, xe tăng,
khói độc (blister gas) và quân khuyển để đàn áp biểu tình. Họ bắt giữ
bừa bãi (arbitrary detention) và tra tấn (torture) hàng ngàn
người vô tội theo phương cách Trung cổ.
Tại Sài Gòn, các lãnh tụ Phật giáo nổi
danh chống Cộng như Thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Quảng Độ đều đứng lên bảo
vệ Phật giáo. Điều khiến đại đa số thầm lặng và ngay cả người thân cận với ông
Diệm xa lánh dần chế độ là phe tranh đấu Phật giáo chỉ đưa ra những nguyện vọng
rất ôn hòa—bình đẳng tôn giáo và hủy bỏ Dụ số 10 đặt Ki-tô giáo lên hàng tôn
giáo duy nhất được công nhận.(Phỏng vấn điện thoại ông Đỗ Mậu, 1/2002)
Không muốn làm mất vui ngày lễ mừng 25
năm thụ phong Giám mục (Tae Deum) của ông Thục (từ 25 tới 27/6/1963),
ông Diệm lại ra tay “tái lập trật tự” theo đúng phương cách ở miền Trung. Dùi
cui, vòi rồng, khói ngạt, quân khuyển, mật vụ, công an, rồi đến Lực lượng Đặc
biệt, Nhảy Dù. Thái độ cứng rắn của anh em ông Diệm-Nhu, với nữ phát ngôn viên
bán chính thức Lệ Xuân, đưa đến cuộc tự thiêu vì đạo pháp của Thượng tọa Thích
Quảng Đức ngày 11/6/1963, mồi lửa đầu tiên thiêu hủy chế độ. Rồi đến cuộc tự
sát bằng thuốc độc của nhà văn Nhất Linh ngày 6/7/1963—để phản đối thứ “cong
lý” của chế độ, khi ông Diệm đưa nhóm liên hệ đến cuộc đảo chính
11/11/1960 ra tòa xét xử hầu răn đe những người chống đối—cái chết đẩy giới trí
thức, học sinh, sinh viên nhập cuộc.
Nhưng đáng sợ hơn là hậu quả của chính
sách bàn tay sắt trên, tức sự bất mãn trong giới quân đội và công chức. Ngay
những người thân thiết với chế độ cũng xa lánh, hay tích cực hơn, tìm cách tổ
chức lật đổ họ Ngô. Quân đội có các Tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Trần
Văn Đôn, Lê Văn Nghiêm, Phạm Xuân Chiểu, v.. v... Dân sự có Y sĩ Trần Kim Tuyến
(với sự yểm trợ của Thượng tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Tổng Giám mục Nguyễn Văn
Bình). Ngoài ra, còn nhóm Ki-tô miền Nam, cựu Cần
Lao, của các ông Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, v.. v...
Như đổ dầu vào lửa, suốt mùa Hè 1963,
thái độ vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thêm hung hăng, khiêu khích. Hai vợ chồng Nhu công
khai vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do “Cộng Sản” chủ trương hay xúi dục
(trong khi chính ông Nhu đang móc nối với Cộng Sản); nhục mạ những cuộc tự
thiêu là “nướng thịt sư”; v.. v... Ngày Thứ Năm, 1/8, trong cuộc phỏng vấn với đài
truyền hình Mỹ CBS, Lệ Xuân tố cáo các lãnh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ
chính phủ. Theo Lệ Xuân, tất cả những gì Phật tử đã làm chỉ có "nướng thịt
sư" (barbecue a bonze) với xăng nhập cảng. Hai ngày sau, 3/8, trong lễ mãn khóa
huấn luyện bán quân sự cho Thanh Nữ Cộng Hoà, Lệ Xuân lên án Phật tử là phản
loạn đang sử dụng các thủ thuật Cộng sản phá hoại quốc gia. Đại sứ Trần Văn
Chương, cha của Lệ Xuân, mượn đài V.O.A. [Đài Tiếng nói Hoa Kỳ] lên án con gái
là vô lễ và hỗn láo [impertinent and disrespectful]
trong buổi phát thanh ngày Thứ Ba, 6/8/1963. Lệ Xuân bèn sai báo Times of Vietnam (số ra ngày Thứ Năm, 8/8/1963) phỏng
vấn để trả lời, khẳng định chỉ nói lên sự thực, và các lãnh tụ tranh đấu không
đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.
Để trả lời Lệ Xuân, ngày Chủ Nhật,
4/8, Đại Đức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước Dinh Tỉnh trưởng Phan
Thiết. Sau đó Phật tử tranh đấu
biểu tình đòi lại xác. Hôm sau, 5/8, một tăng sĩ khác tự thiêu ở Sài-Gòn để đòi
bình quyền tôn giáo.
Ông Nhu ra sức bênh vực Lệ
Xuân. Khi Đại sứ Nolting than phiền, Nhu biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát
biểu ý kiến riêng của một công dân. Cá nhân ông Nhu cũng tuyên bố với hãng
thông tấn Reuters rằng sẽ xuống tay với chùa Xá Lợi vì
các tăng sĩ đang âm mưu đảo chính. Rồi đe dọa rằng nếu không giải quyết được
vấn đề Phật giáo, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo.(Ngày 5/8, New
York Timesđăng lại tin này của
Reuters).
Lối chụp mũ “Cộng Sản” và “âm mưu lật
đổ chính quyền hợp pháp” này, được ông Diệm và Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương
“làm phép lành,” không chỉ có tính cách mạ lỵ vu vơ như ở hải ngoại hiện nay.
Chúng mang sức mạnh của bạo lực man rợ hôn ám các ngục tù và cơ quan cảnh sát,
an ninh của chế độ: Đêm đêm, mật vụ lùng bắt học sinh, sinh viên, cùng Phật tử,
và đối xử với họ như những nghi can Cộng Sản khác. Nước xà-phòng (còn gọi là sà-bông, do chữ savon) đổ vào cuống họng, rồi
cho đi “tàu ngầm,” “tàu bay;” quay điện vào tai, hay bộ phận sinh dục; dùng đèn
tụ quang hàng ngàn watts (oắt) chiếu vào mắt; học
sinh, sinh viên bị nhốt vào những phuy [fut] chứa nước phơi giữa
trời nắng, cho điều tra viên cầm dùi cui gõ bên ngoài. Và bất cứ thứ đòn tra
tấn dã man nào khác mà nha trảo chế độ có thể sáng chế ra. Hai chữ “dã man”
phải dùng vì không còn tĩnh từ nào đủ diễn tả cảnh người hành hạ người như nha
trảo chế độ Diệm khủng bố
dân chúng miền Nam, chỉ vì quyết tâm đòi hỏi tự do, dân chủ hay khác niềm tin
tôn giáo. (Trong số thân hữu của tôi có quí ông Phạm Mộng Chương, Vũ Văn Lê,
Nguyễn Văn Năng, hiện đang cư ngụ tại Houston, từng nếm mùi ngục tù và tra tấn
của chế độ họ Ngô) Phần những lời đả kích Mỹ của vợ chồng Nhu-Lệ Xuân—chẳng
hiểu do muốn chứng minh với Bắc Việt thành tâm hòa hợp, hòa giải, hay để trả
đũa báo chí Mỹ—biến thành những chiếc đinh, từng chiếc, từng chiếc, đóng dần
lên quan tài của chế độ.
Ngày Thứ Năm, 8/8, báo New York Times đăng trên trang nhất bài của ký giả
David Halberstam, từ Sài-Gòn, với tựa "Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt
Nam" [Mrs. Nhu Denounces U.S. for "Blackmail" in Vietnam].
Theo Halberstam, Lệ Xuân tuyên bố rằng Tổng thống Diệm không có dân chúng ủng
hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Song song với bài trên có bài của Tad Szulc ở
Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ Kennedy về
việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật giáo. Trong khi
đó, tuần báo Newsweek,
số đề ngày 9/8/1963, đăng một bài đặc biệt về “Rồng Cái” [Dragon
Lady] Lệ Xuân.
Tại Oat-shinh-tân, ngày 9/8, Michael
Forrestal thuộc Ban Tham mưu HĐ/ANQG làm phiếu trình lên Kennedy về thái độ của
vợ chồng Nhu. Báo cáo này cũng nhắc đến việc ba quốc gia Cao Miên, Ceylon [Sri
Lanka ngày nay], Nepal đã đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc; và, Liên Hiệp Quốc có thể sẽ họp Đại Hội Đồng để thảo luận.
Ngày 10/8, Nolting gặp ông Diệm về Lệ
Xuân. Khi ông Diệm lập lại lối biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát biểu ý kiến
riêng, Nolting bảo thẳng Diệm rằng nếu không đích thân giải quyết, ủng hộ Đại
sứ Trần Văn Chương, và chấm dứt tình trạng “động kinh” [schizophrenia]
hiện tại, thì đừng trông đợi sẽ duy trì được liên hệ tốt với chính phủ Mỹ. Ông
Diệm đành hứa là sẽ cứu xét các biện pháp đối với Lệ Xuân, và đã nghĩ đến việc
cho Lệ Xuân "nghỉ." Trong báo cáo về Oat-shinh-tân, Nolting đề nghị
cho Lệ Xuân đi "nghỉ dài hạn" vì vượt ngoài sự kiểm soát của cha mẹ
và anh chồng. Tổng Giám Mục Thục cũng được thăng cấp [về Vatican]. Phó
Tổng thống Thơ, Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, Bửu Hội,
và chính Ngô Đình Nhu đều đồng ý.(FRUS, 1961-1963, III:560-1)
Ngày Thứ Hai, 12/8—sau khi được chỉ
thị phải áp lực ông Diệm tái xác định chủ trương hòa hoãn với Phật Giáo (FRUS,
1961-1963, III:537-8)—Nolting lại gặp ông Diệm. Vì họ Ngô đã có quyết tâm từ sau buổi
họp mật tại Huế vào cuối tháng 6/1963, ông Diệm trút tội cho các tăng ni thiếu
thành thực, và trách thế giới không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế
độ.
[“Sư giả” là sáng chế của họ
Ngô—mùa Hè 1963, người ta thấy xuất hiện trên đường phố, rạp hát, tiệm ăn nhiều
thanh niên cạo đầu trọc, mặc áo tu sĩ Phật Giáo, chửi thề, ăn nói tục tĩu. Ai
cũng biết đây là sáng kiến của nha trảo họ Ngô].
Ông Diệm cũng phủ nhận nguồn tin mật
mà Bộ trưởng Thuần tiết lộ với viên chức Mỹ tối hôm trước là Lệ Xuân cùng em
ruột, Trần Văn Khiêm, với sự quay mặt làm ngơ của Nhu, đang tổ chức một toán
cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. (ít tuần sau, Khiêm khoe với một ký giả
Aus-tra-li-a [Australia]
danh sách những người cần bị tiêu diệt)
Nhưng vì Nolting sắp hết nhiệm kỳ, ông
Diệm hứa sẽ cho Nolting biết quyết định vào tối đó, khi gặp nhau tại dạ tiệc
tiễn biệt—lời hứa ông Diệm không giữ. Câu
trả lời đích thực của ông Diệm được Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phát biểu
trong buổi họp báo ngày hôm sau, 13/8. Ông Thơ tuyên bố sẽ truy tố một số người
tham dự biểu tình ngày 8/5/1963; và những người bị bắt sau ngày ra Tuyên cáo
chung 16/6/1963 có thể không được khoan hồng. Trong
phần hỏi đáp, ông Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ trích chính
phủ VNCH của TNS Mansfield. Ngày này, như để trả lời ông Thơ, Đại đức Thanh
Tuệ, 17 tuổi, tự thiêu tại chùa Phước Duyên.
Bạch Cung và Bộ Ngoại Giao Mỹ không
dấu được bực dọc. Trong công điện ngày 13/8 gửi Nolting, Bộ Ngoại Giao Mỹ cho
rằng buổi họp báo của Thơ khó thể kết luận là "hoà hoãn." Và đặt câu hỏi liệu ông Diệm có chịu
đi nghỉ mát chung với vợ chồng Nhu một thời gian, để Phó Tổng thống Thơ làm
Quyền Tổng thống, và ông Ngô Đình Luyện làm cố vấn hay Thủ tướng?(FRUS,
1961-1963, III:564-5)
Trọn ngày Thứ Tư, 14/8, Nolting cố
thuyết phục, nhưng ông Diệm quyết không chịu ra thêm một bản tuyên bố nào về
chính sách hòa hoãn với Phật Giáo. Khi vào chào từ biệt lúc 11G00, Nolting chỉ
được nghe ông Diệm ca ngợi công lao ông Nhu đóng góp vào quốc sách chống Cộng. Tới phút chót, sau khi Nolting lại đe
rằng liên hệ giữa Mỹ và VNCH sẽ bị tổn thương nếu Diệm không tuyên bố rõ ràng
ai đang thực sự cai trị miền Nam, cải thiện dư luận về những lời tuyên bố của
Lệ Xuân, ông Diệm mới hứa sẽ ra tuyên cáo trước khi Nolting rời Sài Gòn.(FRUS,
1961-1963, III:565-6)
“Tuyên cáo” của ông Diệm thực ra là
bài phỏng vấn của Marguerite Higgins đăng trên The New York Herald Tribune ngày 15/8. Ông Diệm tuyên bố vẫn theo
chính sách ôn hoà với Phật giáo, và ngầm đả kích những lời tuyên bố lỗ mãng của
vợ Nhu. Ông Diệm và gia đình cũng rất vui lòng về việc bổ nhiệm tân Đại sứ Henri Cabot-Lodge. Nhưng đây
chỉ là món quà chia tay với Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ. Các viên chức Mỹ
không thỏa mãn với thứ “Tuyên ngôn” qua phỏng vấn báo chí này: Nó không những
bán chính thức mà Diệm có thể phủ nhận hay cải chính bất cứ lúc nào.
Trong khi đó, phong trào tranh đấu của
Phật Giáo ngày một lớn mạnh. Tại Huế, ngày Thứ Tư, 14/8, một thợ mộc Phật tử
phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết. Hôm sau, 15/8, ni cô Diệu Quang
tự thiêu tại chùa Ninh Hoà. Sinh viên Huế cũng bắt đầu xao động. Từ giữa tháng
8/1963, họ công khai chống đối việc thay thế Viện trưởng Đại học Huế Linh mục
Cao Văn Luận bằng Giáo sư Nguyễn Hữu Thế.
Giọt nước làm tràn ly, và
cũng chiếc đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH, là cuộc tấn công hầu hết
các chùa chiền trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20, rạng ngày 21/8/1963.
Đây là một tội ác vi phạm nhân quyền
khác, nặng nề gấp trăm lần cách dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân mà có
nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô Đình Diệm sính dùng để khảo cung nghi can
ngày còn làm quan cho Pháp hơn 30 năm trước. Cuộc tấn công này và những thủ
thuật bưng bít, xuyên tạc của anh em ông Diệm-Nhu trong những ngày kế tiếp—như
ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục soát vài chục ngôi chùa lớn trong số 4,700 chùa
khắp miền Nam—gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết trực tâm hư” của ông Diệm,
và gột sạch bất cứ thiện cảm nào còn sót lại với ông ta trong đám đông thầm
lặng cũng như viên chức Mỹ.
Cho đến nay, vẫn còn người cố tình
xuyên tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8. Bởi thế tưởng
nên thuật lại tóm lược biến cố trên.
(9) Cuộc tảo
thanh chùa chiền:
Ý định
tấn công các chùa chiền và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không
được giữ bí mật hoàn toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần
đã cho nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.(FRUS,
1961-1963, III:595n2) Một ký giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một
viên chức nào đó tại Dinh Gia Long, nên đã tới chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công. Và,
thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông Nhu đã răn đe trong cuộc phỏng
vấn của hãng thông tấn Reuters là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting
chất vấn đã qui trách cho ký giả Mỹ dẫn không đúng lời mình.
Người đưa ra đề nghị thiết quân luật
là các Tướng, do André Đôn cầm đầu. Nhưng không hiểu các Tướng có biết đến kế
hoạch mật của ông Nhu. Người được giao trách nhiệm tổng quát ở Sài Gòn là Trung
tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân Đoàn III, kiêm Tổng trấn thủ đô. Đại tá Lê
Quang Tung chỉ huy Lực Lượng
Đặc Biệt, và Nguyễn Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, chỉ huy Cảnh sát
mặc giả quân phục. Tại chùa Xá
Lợi (Sài-gòn), cuộc tấn công
khởi sự vào khoảng 1 giờ sáng. Binh sĩ LLĐB và Cảnh Sát sử dụng cả lựu đạn khi lục
soát. Hòa thượng Tịnh Khiết và Thượng tọa Tâm Châu cùng Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đều bị bắt. Hơn 30 người bị thương.
Chỉ có hai tăng sĩ chạy được qua cơ quan USOM, gần chùa Xá Lợi xin tị nạn
(Thượng tọa Trí Quang xin tị nạn vài ngày sau). Mặc dù các giới chức Việt Nam áp lực phải
trao trả hai tăng sĩ trên, nhưng XLTV Đại sứ Trueheart từ chối. Ông Nhu bèn cho
lệnh đặt kẽm gai cô lập cơ sở USOM, ngoại bất nhập, nội bất xuất. (Gravel,
II:210; Tâm Châu 1994:19;FRUS,
1961-1963, III:595-7; Xem thêm Phạm Trọng Nhân, "Cuốn sổ tay của
một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi;" Bách Khoa, số 169
(15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31).
Chỉ riêng tại Sài-gòn, 2,000 tăng ni
Phật tử bị bắt. Ngoại trừ Hòa thượng Tịnh Khiết được phóng thích ngay, hầu hết
các lãnh tụ tăng ni tranh đấu đều bị giam giữ. Nhiều người bị tạm giam trên
những sà-lan nổi trên sông Sài-gòn. (Giống như chế độ Decoux giam giữ tù binh
Cộng Sản trong cuộc nổi dạy ở miền Nam vào tháng 11/1940)
Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mõ,
tiếng chuông, tiếng kêu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ
thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh sát Dã chiến bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí
cho lệnh nổ súng. Giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu trong vụ cách chức
Linh mục Viện trưởng Cao Văn Luận trong hai ngày 17-18/8 cũng bị bắt giữ tại tư
gia.
Theo Đại sứ Pháp, người có mặt bên ông
Nhu suốt thời gian tấn công chùa chiền, viên chức Việt còn bỏ vũ khí, truyền đơn
vào các chùa để vu cáo Phật giáo âm mưu lật đổ chính phủ. Anh em ông Diệm-Nhu
cũng cắt hết điện thoại của các cơ quan Mỹ hầu mong bưng bít sự thực. Các phi
vụ bị tạm ngưng. Báo chí bị kiểm duyệt gắt gao.(CLV, SV, 17:28; FRUS, 1961-1963, III:598-9)
Ngày 6/9, ông Nhu biện bạch với một
viên chức CIA Mỹ rằng ngày 8/5 đang đi nghỉ mát với gia đình. Nhu cũng không
liên quan gì đến việc ban hành thiết quân luật hay tấn công chùa chiền. Tối
ngày 18/8, các Tướng đã yêu cầu Diệm ban hành thiết quân luật. Ngày 19 hay
20/8, Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu trình bày một kế hoạch tấn công các chùa và
danh sách những người cần bắt mà Trí đã chuẩn bị từ một tháng trước. Nhu chỉ là
con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày 21/8, Nhu vẫn theo đuổi
chính sách hòa hoãn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu diếm sự thực [deception].
(FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69)
Để che đậy cho tội ác có thể bị truy
tố ra trước Tòa Hình sự Quốc tế này, trong buổi họp chính phủ đặc biệt vào 5
giờ rưỡi sáng ngày 21/8, ông Diệm hoàn toàn im lặng về cuộc đánh chùa, bắt tăng
ni, mà chỉ nói nhiều đơn vị Cộng Sản đang xâm nhập một số tỉnh lﬠquận lần thủ
đô nên phải thiết quân luật để tảo thanh theo điều 44 Hiến pháp. Ngoại trưởng
Vũ Văn Mẫu và Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phản đối nhưng không kết quả.
Đúng 6G00 sáng, Tổng thống Diệm chính
thức tuyên bố thiết quân luật qua đài phát thanh. Đồng thời tiết lộ vì Tướng Lê
Văn Tị bệnh nặng đã cử Trung tướng Trần Văn Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu
Trưởng, và Tướng Tôn Thất Đính được phong làm Tổng trấn. Sau đó, ra lệnh giới nghiêm từ 9 giờ
tối đến 5 giờ sáng.(AFP) Đài phát thanh quân đội cũng đọc một nhật lệnh dài của
ông Nhu, kêu gọi Thanh Niên Cộng Hòa phải ủng hộ chính quyền.
Ngay trong ngày 21/8, Tướng Đôn báo
cáo qua điện thoại với Tướng Harkins rằng chính ông Diệm ra lệnh Thiết quân
luật để chống lại Phật giáo. Hiện
mới chỉ sử dụng một tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài-gòn. Tuy
nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng
xuất hiện trên đường phố Sài-gòn, Chợ-lớn và Huế.
Cuộc tổng tấn công chùa chiền xảy ra
khi Đại sứ Henri Cabot-Lodge mới từ Honolulu qua
Tokyo, và dự định ghé thăm Hong
kong ít ngày, trước khi tới Sài Gòn để trình ủy nhiệm thư vào ngày
26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một chuyến phi cơ quân sự đặc biệt cho Lodge tới
ngay Sài Gòn. Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ đô miền Nam.
Đại sứ Cabot-Lodge là một lãnh tụ quan
trọng của Đảng Cộng Hòa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng đứng chung liên danh với
Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh Kennedy-Johnson của đảng Dân Chủ đả bại khít khao. Từ tháng 6/1963, khi
Oat-shinh-tân hỏi ý kiến về việc đề cử Lodge, ông Diệm không phản đối, nhưng
không dấu sự bất mãn và lo ngại. Ông
Nhu mỉa mai Lodge là Toàn quyền [Gouverneur General], trong khi ông
Diệm tuyên bố dù có gửi 10 Lodge qua Việt Nam, Mỹ vẫn phải huấn luyện người
bắn pháo binh vào Dinh Gia Long.
Trong buổi tiếp kiến Kennedy vào trưa
ngày 15/8, Cabot-Lodge có cảm tưởng rằng Kennedy đặc biệt lo ngại về tình hình
Việt Nam,
và hàm ý rằng chế độ Diệm đang đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công chùa chiền ngày
21/8 đặt Lodge trước một việc đã rồi. Một cái tát xiếc, như một ký giả Mỹ nhận
định, nếu xét kỹ những áp lực và đòi hỏi “hòa hoãn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.
Ngay trong ngày 23/4, Cabot-Lodge cho
nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để có được một hình ảnh
rõ ràng về tình hình. Lodge còn mời các ký giả Mỹ tới tham khảo hầu cải thiện
liên hệ giữa Tòa Đại sứ với các ký giả. Không kém quan trọng, Lodge cho người
đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc
hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle.Lodge
còn tiếp xúc với Đại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvadore
d’Asta. Chỉ trong vòng 24 giờ,
Lodge đã nắm vững được tình hình. Trước hết, quân đội không dính líu gì đến
cuộc tấn công chùa chiền, và nhóm Tướng Dương Văn Minh, André Đôn, Lê Văn Kim
muốn làm đảo chính.
Hai biến cố khác chấn động dư luận là
việc Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ chức chiều ngày 22/8, và cạo đầu phản
đối chính sách đàn áp Phật giáo. Hôm sau, ông Diệm không chấp thuận cho ông Mẫu
từ chức, chỉ cho nghỉ dài hạn ba tháng, qua Nepal hành hương. Ngày Thứ Bảy,
24/8, ông Mẫu tới đại học Luật khoa nói chuyện với sinh viên, và trước khi ra
về hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng
từ ngày này, ông Mẫu bị giam lỏng tại gia. Hai ngày sau, 26/8, trên đường ra
phi trường để qua India,
ông Mẫu bị Tướng Tôn Thất Đính cản lại tịch thu thông hành theo lệnh của ông
Diệm. (Nhân 1964 a:39) Mãi tới ngày 29/8, ông Mẫu mới
được rời nước.
Biến cố thứ hai là ngày 23/8 sinh viên
Y-Dược Sài Gòn xuống đường ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật tử và sinh viên, giáo
chức tại miền Trung. Việc sinh viên Y-Dược, được coi là cốt cán của chế độ và
những thành phần bảo thủ nhất trong xã hội, nghiêng về phe Phật Giáo cho thấy
uy tín chế độ đã suy tàn. Anh em ông Diệm-Nhu tìm cách vuốt ve, nhưng không
thành công. Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn sinh viên học sinh biểu tình tại
Chợ Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai anh em ông Diệm-Nhu
thẳng tay đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay bị bắt giữ. Vì dám chống đối
chế độ, sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng Sản.”
Chưa hết. Cuộc tấn công chùa chiền
ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp thế giới. Từ ngày 11/6, bức hình
tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức đã trở thành biểu tượng của cuộc tranh đấu
của Phật giáo và chính sách giáo phiệt Ki-tô của anh em ông Diệm. Vào thượng
tuần tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu triệu tập Đại Hội
đồng Liên Hiệp Quốc thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Hoàng Gia Cao
Miên ra tuyên cáo:
“Chính phủ Hoàng gia
Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sài-gòn đàn áp man rợ các tăng ni và
Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng
lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc
phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một
thách thức thế giới văn minh. Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới
dám vi phạm những tội ác chống lại quyền tối thượng của con người như thế.”
Tiếp đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi
các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm.
Nam Vang còn kêu gọi Vatican cho lệnh chính
quyền Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (CĐ
số 896, ngày 23/8/1963, Phnom
Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
Ngay đến Vatican, điểm tựa vững chắc nhất
của chế độ Diệm, cũng bất bình. Khâm sứ Vatican d’Asta từng bảo thẳng ông Diệm
rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican và
đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt Nam.
Tại Mỹ, dư luận báo chí cực kỳ sôi
nổi. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ Mỹ có thái độ tức
khắc. Tờ New York Times kịch liệt lên án chính phủ Diệm, mà sự
mất lòng dân, độc tài và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật giáo. Báo này
cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đã không sử dụng áp lực thích đáng với ông
Diệm và chậm trễ trong việc minh định thái độ. (CĐ số 4879/83, Đại sứ ở Mỹ gửi
BNG; CLV, SV, 17:29) Những
báo khác gọi chế độ Diệm là độc tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự tham
chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng. (CLV, SV, 17:33) Chỉ riêng tờ New York Herald Tribune muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm
trợ chính phủ Diệm trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong loạt bài
viết về chế độ Diệm trên New
York Herald Tribune, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế
độ Diệm: không hề có kỳ thị tôn giáo mà những biến động ở Việt Nam thuần có
tính cách chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại
quốc, đặc biệt là Mỹ.
Trong khi đó, việc Đại sứ Trần Văn Chương từ chức (hoặc
bị ông Diệm cách chức, nếu muốn) cũng gây bối rối cho chế độ. Rồi ngày
24/8/1963, ông Vũ Văn Thái—cựu Giám đốc Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm
cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo— cũng viết thư cho Harriman,
đề nghị Tổng thống Diệm và gia đình phải ra đi. Nội dung thư ông Thái cũng
tương tự như thư riêng của ông Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles từ New Dehli.(FRUS,
1961-1963, IV:114-5. Ngày
5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy).
Chính phủ Kennedy bồn chồn theo dõi
những phản ứng bất lợi này. Các viên chức cao cấp Mỹ không muốn cuộc tranh đấu
của Phật Giáo khiến tình hình quân sự và chính trị miền Nam thêm suy
thoái. Bởi thế, Oat-shinh-tân đẩy mạnh kế hoạch bắt vợ chồng ông Nhu và Tổng
Giám Mục Thục ra đi. Mối quan tâm duy nhất của người Mỹ chỉ còn là số phận ông
Diệm. Đa số vẫn muốn giữ ông Diệm; nhưng vấn nạn là thật khó tách rời ông Diệm
khỏi các anh em. [Tối ngày
22/8/1963, tức khoảng 8G56 ngày 23/8/1963, Roger Hilsman chỉ thị cho Lodge:
Chính sách về Phật giáo không thay đổi; tìm cách giảm quyền lực Nhu]. (FRUS,
1961-1963, III:605)
Vận mệnh nhà Ngô rơi gọn vào bàn tay
tân Đại sứ Cabot-Lodge. Những tiết lộ của Tướng André Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu
trưởng, trong buổi nói chuyện với Trung tá Lucien Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu
ngày Thứ Sáu, 23/8, cung cấp cho Lodge những viên đạn đầu tiên để bắn vào phe
bênh vực ông Diệm quanh Kennedy. Trước hết, André Đôn yêu cầu đài V.O.A. cải
chính là Cảnh sát đặc biệt của ông Nhu mà không phải quân đội đã tham gia cuộc
đàn áp, tấn công chùa chiền. Tướng
Đôn cũng khẳng định khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong đêm
21/8 không phải cán binh Cộng Sản.
Nhận định về anh em họ Ngô, Tướng Đôn
cho rằng ông Nhu là "khối óc" [thinker] của ông Diệm; nhưng
ông Diệm có quyền quyết định tối hậu. Vẫn theo Tướng Đôn, Lệ Xuân hành xử như
"vợ" [platonic wife] của ông Diệm. Ông Diệm chưa bao giờ lấy
vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân lo chăm sóc ông
Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói chuyện, giúp ông Diệm
giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam nào, thống trị gia đình. Giữa
ông Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục. Ông Diệm chưa hề trải qua mùi vị tình
dục. Tình trạng giữa ông Diệm và Lệ Xuân, theo Tướng Đôn, giống như Hitler và
Eva Braun.
Tướng Đôn còn tiết lộ ông Diệm rất
thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn, nhờ đẹp trai, đã được
ông Diệm cất nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh điền quân đội. Theo Tướng
Đôn, không thể tách rời ông Diệm với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn giữa hai anh
em ông Diệm và Nhu, Đôn muốn thấy ông Nhu ra đi. (FRUS, 1961-1963,
III, tài liệu 275)
[Xin đừng vội trách ông Đôn bịa đặt. Tối ngày 26/8, ông Diệm
(dù đã 66 tuổi) nói với Đại sứ Lodge là ông ta từng cảnh cáo Lệ Xuân rằng “sẽ
lấy vợ,” nếu Lệ Xuân không ngừng phát ngôn bừa bãi.(VNNB, I-C: 1955-1963,
tr. 326) Trong hồi ký của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, cũng tương tự như nhận
định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là "một mụ phù thủy."
Vài Tướng lãnh Việt còn đi xa hơn, cả
quyết từng thấy bà Lệ Xuân lả lơi, tình tứ bên ông Diệm. Tướng Nguyễn Chánh Thi
thường gọi Lệ Xuân là “đĩ điếm,” làm ô uế Dinh Độc Lập.]
Đêm Thứ Bảy 24/8, sau khi nhân viên Mỹ
tiếp xúc với các Tướng Lê Văn Kim, Nguyễn Khánh, v.. v... Cabot-Lodge gửi công
điện báo cáo về những Tướng muốn xin yểm trợ làm đảo chính. Tuy nhiên, theo Lodge, thực trạng
Sài-gòn cho thấy một âm mưu đảo chính chẳng khác gì "viên đạn bắn trong
đêm."
Tại Oat-shinh-tân, tối ngày 24/8 [sáng
Chủ Nhật, 25/8 VN], XLTV Ngoại trưởng George W. Ball chỉ thị cho Cabot-Lodge:
Phải áp lực cho vợ chồng
Nhu ra đi; nếu Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại vấn đề ủng hộ Diệm. Lodge
được quyền nói với các Tướng đang âm mưu đảo chính rằng Mỹ sẽ tuyên bố cắt quân
và kinh viện để chứng tỏ việc ngưng yểm trợ Diệm. Ngoài ra, Lodge cũng được
quyền cho VOA cải chính rằng quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công các
chùa chiền. (CĐ số 243; FRUS, 1961-1963, III, Tài
liệu 281).
Xin mở dấu ngoặc nhỏ để bàn
thêm về công điện số 243 của Ball vào tối 24/8 nói trên. Công điện này chấp
thuận trên nguyên tắc đề nghị của Lodge: Phải áp lực vợ chồng Nhu-Lệ Xuân ra
đi, nếu ông Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại việc ủng hộ ông Diệm. Thật
ra, kế hoạch bắt ông Thục và vợ chồng ông Nhu ra đi đã được cựu Đại sứ Nolting
dàn xếp từ thượng tuần tháng 8/1963. Nhưng công điện 243 gửi đi khi TT Kennedy,
McNamara, Rusk cùng Giám đốc CIA John McCone đều không có mặt tại
Oat-shinh-tân. Bởi thế, mặc dù
được Kennedy phê chuẩn trước khi gửi đi (Roger Hilsman, To Move A Nation, tr.487-8),
có người chê trách
Ball vượt quá quyền hạn.
(dựa theo luận cứ của Tướng Taylor; Swords
and Plowshares, tr. 292-4) Thứ nữa, nếu Ball vượt quá quyền hạn, trong các
phiên họp HĐ/ANQG Mỹ kế tiếp phải có ai đó chống lại. Sự thực hoàn toàn trái
ngược: Khi được Kennedy hỏi ý kiến, không một ai bài bác công điện tối ngày
24/8 của Ball. Cuối cùng, sau một loạt những cuộc hội họp sôi nổi, ngày 30/8
HĐ/ANQG Mỹ quyết định quay mặt cho các Tướng làm đảo chính (tức rút lại sự bảo
vệ chế độ Diệm). Ngoài ra, nếu ông Ball vượt quá quyền hạn, hẳn không
thể tiếp tục ngồi ở Bộ Ngoại Giao, và dưới thời chính phủ Johnson (1963-1969)
còn được giao trách nhiệm tìm hòa bình cho miền Nam.
Công điện 243 là hậu quả trực tiếp đầu
tiên của cuộc tấn công các chùa chiền. Trước ngày này, cố vấn của Kennedy chia
làm hai phe về vấn đề Việt Nam.
Phe quân đội, kể cả Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, và CIA muốn tiếp tục ủng hộ
ông Diệm. Trong
khi đó, phe dân sự, gồm Bộ Ngoại Giao và Cố vấn An Ninh Quốc Gia, muốn tách rời
ông Diệm khỏi ảnh hưởng các anh em, nghĩa là phải đưa ông Thục, Nhu và bà Lệ
Xuân rời nước. Người đứng sau chủ trương “Diem must go” hay “không thể
chiến thắng với anh em ông Diệm” này là Tướng Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng
Ngoại giao đặc trách Viễn Đông vụ (mới thay W. Averell Harriman vì Harriman
được thăng chức Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Chính trị vụ). Hilsman là một
cựu chiến binh Thế chiến thứ hai, chuyên viên về du kích chiến. Hilsman đã thảo
công điện số 243 nói trên, và được Harriman chấp thuận. Mike Forrestal, một
nhân viên Ban Tham mưu HĐ/ANQG tại Bạch Cung, gửi cho Kennedy, đang nghỉ cuối
tuần ở Hyannis Port. Trong khi đó, XLTV Ngoại trưởng
Ball gọi điện thoại cho Kennedy, trình bày về công điện trên. Kennedy chấp
thuận cho gửi qua Sài Gòn nếu các cố vấn cao cấp đồng ý. Ball gọi Rusk ở New York, Rusk đồng ý dù không thích lắm.
Harriman gọi CIA, John McCone không có mặt, nên Richard Helms, Phó Giám đốc đặc
trách kế hoạch, đồng ý. Forrestal gọi Thứ trưởng Quốc Phòng Gilpatric, cả
Gilpatric và McNamara chấp thuận. Gilpatric gửi một bản sao công điện cho
Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của Kennedy. Taylor
chống lại, nhưng McNamara không đồng ý với Taylor. Theo Robert Kennedy, em trai Tổng
thống Kennedy, sau này Kennedy hối tiếc, và cho việc gửi công điện trên là một
sai lầm.(McNamara, In
Retrospect, 52-5)
Ngay trong ngày Chủ Nhật, 25/8, tại
Sài Gòn, Cabot-Lodge triệu tập một phiên họp đặc biệt với Tướng Harkins, Tư
lệnh MACV, và John H. Richardson, trưởng lưới CIA. Sau đó, điện về
Oat-shinh-tân, đề nghị cho các Tướng xúc tiến việc đảo chính. Lodge cũng tiết
lộ đã thông báo cho các Tướng biết rằng Mỹ chỉ muốn loại Nhu, vẫn giữ Diệm;
nhưng về ông Diệm, tùy thuộc ở quyết định của các Tướng. (FRUS, 1961-1963,
III, tài liệu 285)
Mặc dù các cố vấn của Kennedy không
nhất trí về đảo chính, và chính Kennedy không muốn thay ngựa, cuối cùng
Oat-shinh-tân cho Cabot-Lodge toàn quyền quyết định. (Ibid., III: tài
liệu 286)]
Tóm lại, cuộc tấn công các chùa chiền
đêm 20 rạng 21/8 là một dấu mốc cực kỳ quan trọng trong liên hệ giữa anh em ông
Diệm và chính phủ Kennedy. Mặc dù tự nó—và toàn bộ cuộc tranh đấu của Phật giáo
nói chung—chưa đủ lật đổ chế độ Diệm, cuộc tấn công đêm 20 rạng 21/8 này chặt
đứt mối liên hệ thiết thân suốt hơn 9 năm trời giữa ông Diệm và nước Mỹ. Phản
ứng của anh em ông Diệm và Lệ Xuân—qua cách chụp mũ Cộng Sản để đàn áp, chống
Mỹ để tự vệ (đồng hóa tham vọng cá nhân và gia đình với chủ quyền “quốc gia”),
hoặc móc ngoặc Hà Nội—đã tạo phản ứng nghịch chiều. Trên con đường độc đạo của
mình, anh em ông Diệm sống sót thêm được hơn hai tháng nữa phải được coi như
một phép lạ.
Khi không còn thể lấy giấy
gói lửa được nữa, trong tháng 10/1963, anh em ông Diệm-Nhu sai thủ hạ (Trần Hữu Duệ, một tay chơi
nổi danh Sài Gòn) dùng nữ sắc và rượu thịt gài bẫy quay phim con heo các đại
diện “khả kính” trong phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc. Hành động này không
những tự nó là một hình tội cản trở công lý, mà còn bộc lộ rõ “đạo đức” của anh
em ông Diệm-Nhu.
[Cuốn Nhật ký Đỗ Thọ nhắc đến màn gài bẫy này từ nhiều thập
niên trước. Mới đây cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu trưởng Lữ Đoàn Phòng vệ
phủ Tổng thống, cũng thú
nhận trên báo Văn Nghệ Tiền
Phong tiểu xảo trên. Một cựu
sĩ quan thông dịch cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại Houston,
Texas, đã tiết lộ với tác giả thủ đoạn này từ lâu. Vậy mà nhũng người muốn che
đậy tội ác cho họ Ngô—dù biết rõ hơn ai hết vụ dàn cảnh quay phim con heo
trên—vẫn cố vin vào “báo cáo” của phái đoàn LHQ (danh số A/5360, sau khi các
thành viên được trao tặng những tấm hình một đời khó quên ô nhục của mình) để
ngụy biện cho chính sách kỳ thị tôn giáo của anh em ông Diệm hay vụ tấn công
rạng sáng ngày 21/8/1963. Tội nghiệp cho bốn chữ “lương thiện trí thức!”].
PHÂN ĐOẠN II: Chính các Tướng đề nghị
đảo chính
Cuộc đảo chính 1/11/1963
tiến triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là kế hoạch đảo chính ngày
1/9/1963, và rồi mới tới cuộc đảo chính ngày 1/11/1963.
1. Kế hoạch đảo
chính ngày 1/9/1963:
Kế hoạch đảo chính do chính các Tướng đề nghị với viên chức Mỹ từ tháng 6/1963.
Người đứng ra tiếp xúc với tình báo Mỹ là Trung tướng André Đôn. Tháng 6/1963,
giữa cao trào tranh đấu Phật Giáo, Tướng Đôn cùng em rể là Lê Văn Kim (lấy
Gabrielle Trần Văn Đôn) đã yêu cầu đại sứ Nolting cho phép làm đảo chính, nhưng
Nolting giận dữ từ chối. Ngày 8/7/1963, ông Đôn lại tiết lộ ý định với một sĩ
quan CIA.
Khoảng đầu tháng 8/1963,
André Đôn gia nhập nhóm Tướng Minh, qua đường dây Tướng Kim. Từ vài năm trước,
hai Tướng Minh và Kim đã tìm cách đảo chính. Những ngày kế tiếp, nhiều người tham
gia, ngoại trừ Huỳnh Văn Cao (vì là thành phần tín cẩn của chế độ) và Tư lệnh
Hải Quân. Tại QĐ IV, dù Tướng Cao không được tiếp xúc, Tư lệnh Phó đồng ý.
Tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh QĐ II, đồng ý nhưng vẫn ở Pleiku, có lẽ để nếu cần
sẽ phản lại.
Ngày Thứ Sáu 23/8, nhân dịp anh em ông
Diệm-Nhu tấn công chùa và bắt giữ tăng ni trên toàn quốc, Tướng Đôn lại than
phiền với nhân viên tình báo Mỹ, và hỏi ý kiến về việc lật đổ chế độ. Tướng
Kim, với cương vị phụ tá báo chí của Tướng Đôn, cũng nối lại liên hệ với tình
báo Mỹ. Gặp Rufus Phillips, Giám
đốc Phòng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, ngày 23/8, Kim than phiền quân
đội đã trở thành "tay sai" của Nhu: Chính ông Nhu đã mưu mẹo để các
Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật. Tướng Kim còn tiết lộ ông Nhu đã cho
lệnh Cao Xuân Vỹ dùng Thanh Niên Cộng Hòa tổ chức phản biểu tình các học sinh,
sinh viên dự trù vào ngày 25/8. (FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 174)
Việc công khai đàn áp Phật giáo ngày
21/8 không chỉ tạo cho nhóm Tướng Minh thêm một lý do để đảo chính mà còn khiến
rất nhiều người thân cận chế độ xa lánh anh em Diệm. Sáng Thứ Bảy 24/8, khi Phillips đến
nhà Bộ trưởng Phụ tá An Ninh Nguyễn Đình Thuần ăn sáng, ông Thuần nói đến lúc
vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo
Thuần, ngày 23/8, ông Diệm viết
thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố gì nữa. Đồng thời, cho Tướng
Bénoit Trần Tử Oai, Cục trưởng Tâm Lý Chiến, và Tổng Giám đốc Thông Tin biết
lệnh này. Theo Thuần, nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ hành động.(FRUS,
1961-1963, III, Tài liệu 273)
Đại tá Đỗ Mậu (Giám đốc An Ninh Quân
Đội), Tướng Nguyễn Khánh (Tư lệnh Quân đoàn II), Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu
trưởng Liên quân), hay Nguyễn Văn Thiệu (Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, từng “rửa
tội” để mua chuộc lòng tin của anh em ông Diệm-Nhu) đều thay đổi thái độ. Ngày 22/8, Đại tá Đỗ Mậu gặp Tướng
Đôn, xin gia nhập tổ chức đảo chính. (Mậu 1993, tr. 614) Trưa ngày 24/8, Thiếu
tướng Khánh yêu cầu được gặp một nhân viên CIA để minh định không yểm trợ ông
Nhu. Theo Khánh, các tướng đã
chán nhận lệnh của họ Ngô, và muốn biết Mỹ có yểm trợ hay chăng. Nếu các nhà
chính trị, trong trường hợp bị cắt viện trợ, muốn ngả theo Cộng sản hay chủ
trương trung lập, quân đội sẽ nổi dậy. Theo Khánh, Trần Thiện Khiêm là đồng
minh chắc chắn nhất của Khánh. (Ibid., III, tài liệu 284)
Trung tá Phạm Ngọc Thảo—người thân của
Tổng Giám Mục Thục, từng cứu giá chế độ trong cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, và
đang giữ chức Thanh tra Ấp Chiến Lược, nhưng sau này được Cộng Sản truy tặng
chức liệt sĩ—cầm đầu một nhóm đảo chính khác. Albert Thảo hợp tác với nhóm ông
Huỳnh Văn Lang và cựu đảng viên Cần Lao trong Liên Kỳ Nam-Bắc Việt cũ. Hai
Tướng Khiêm và Raymond Khánh cũng có liên hệ; nhưng cả hai lại nghi Albert Thảo
là Cộng Sản nằm vùng, hoặc vì một lý do nào đó, chỉ ậm ừ cho qua.
[Theo tài liệu Mỹ, Albert Thảo đã vận
động đảo chính từ nhiều tháng trước ngày 30/8, và cũng báo cáo với cơ quan CIA
tại Sài-gòn (CAS) về âm mưu đảo chính của hai nhóm Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn
Lang.(FRUS, 1961-1963, IV:40) Ngày Thứ Sáu, 30/8, cơ quan CIA báo cáo
rằng có 3 tới 5 tiểu đoàn theo Thảo. Lực
lượng này đủ sức duy trì tình thế từ 3 tới 4 tiếng đồng hồ, trong khi chờ đợi
các Tướng nhập cuộc. Thảo muốn
đảo chính trong vòng 1 tháng, hoặc sớm hơn. Thảo
muốn mời Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, Trần Lê Quang, Vũ Văn Thái, Huỳnh Văn
Lang, Nguyễn Hữu Châu. Thảo cũng liên lạc với các lãnh tụ Đại Việt. Thảo nói
muốn cầm đầu ngành An ninh quân đội, tham gia chính phủ.(FRUS, 1961-1963,
IV, tài liệu 22)
Mới đây, hồi ký Nhân chứng một chế độ của ông Huỳnh Văn Lang, nhất là tập
III, đã trình bày khá đầy đủ về liên hệ giữa ông và Phạm Ngọc Thảo. (Xem thêm
Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 307, 325). Tuy nhiên, trường hợp Albert
Thảo khá phức tạp. Albert Thảo là loại tình báo tam tứ trùng, vừa liên lạc với
Mỹ, Dinh Gia Long, các phe đảo chính, vừa có thể cung cấp tin tình báo cho Cộng
Sản. Không phải vô tình mà sau này Cộng Sản phong Albert Thảo làm liệt sĩ.]
Ít ai ngờ nhất là ngay Trần Kim
Tuyến—người thân cận của ông Nhu, vừa nắm cơ quan Mật vụ của chế độ, vừa lo
kinh tài cho đảng Cần Lao—cũng
mưu đảo chính từ tháng 7/1963. Vì việc này, ông Tuyến bị đầy đi làm Tổng Lãnh
sự ở Phi Châu (Cộng Hòa Arab, rồi Morocco), nhưng vì gốc an ninh tình báo nên
các quốc gia trên không nhận, phải tạm lưu trú ở Hong Kong.
Tóm lại, muốn đảo chính ông Diệm không
chỉ có Tướng Minh, người nổi danh chống đối chế độ. Hầu hết các Tướng và Tư lệnh đơn vị,
cùng những người “thân tín” của họ Ngô đều muốn ra tay.
Nhiệt thành, hăng say
nhất trong việc lật đổ chế độ Diệm là lực lượng sinh viên, học sinh. Như đã
lược thuật, sinh viên học sinh bắt đầu chú tâm đến thời sự sau cái chết của nhà
văn Nhất Linh vào tháng 7/1963. Tới tháng 8/1963, họ mới tìm được cơ hội nhập
cuộc. Ngọn lửa tranh đấu đầu tiên được thắp lên ở Huế, khi ông Diệm cách chức
Viện trưởng Đại học của Linh mục Cao Văn Luận. Ngày 15/8, sinh viên và học sinh
Huế biểu tình, chính quyền thả cả quân khuyển để đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số bị bắt. (Nguyễn
Ngu Í 1964a:43) Hai ngày
sau, trong lễ bàn giao giữa Linh mục Luận và ông Nguyễn Hữu Thế, đến lượt các
Giáo sư từ chức tập thể: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa (người đã từ chối
chứng nhận các nạn nhân cuộc thảm sát tối 8/5 trước Đài Phát Thanh Huế là do
mảnh lựu đạn gây nên); Bùi Tường Huân, Khoa trưởng Luật khoa; Tôn Thất Hanh,
Khoa trưởng Khoa học; Nguyễn Văn Trường, Ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Tân
Viện trưởng Thế phải vào Sài-gòn báo cáo. Linh mục Luận cũng bỏ vào Đà-nẵng.
Các giáo sư lại ký kiến nghị yêu cầu đưa Linh mục Luận trở lại. (Nguyễn Ngu
Í 1964b:28)
Chiều đó, sinh viên
Huế cản đường Bộ trưởng Giáo dục Trình khi ông Trình ra phi trường vào
Đà-nẵng.Ngày Thứ Ba, 20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong
khuôn viên trường phải xin phép trước.
[Thứ Hai, 19/8/1963: Sinh
viên Huế hủy bỏ một cuộc biểu tình vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách
Mạng tháng 8/1945)].
Tại Sài Gòn, ngày 23/8—sau cuộc tổng
tấn công chùa chiền và nhất là việc tân Đại sứ Cabot-Lodge đến nhận nhiệm sở
sớm hơn hạn định—sinh viên Y-Dược khoa biểu tình đòi trả tự do cho Phật tử. Hai ngày sau, Chủ Nhật 25/8, hàng ngàn
sinh viên học sinh tụ họp trước chợ Bến Thành, Sở Thú, bến Bạch Đằng v.. v... Một nữ học sinh tên Quách Thị Trang bị
bắn trọng thương, rồi qua đời trong Tổng Y viện Cộng Hoà. Theo kết quả sơ khởi
khoảng 500 sinh viên, học sinh bị bắt. Quân đội và Cảnh sát thẳng tay đàn áp. Hơn 200 xe đạp và xe
gắn máy mà học sinh, sinh viên sử dụng để kéo đến chỗ biểu tình bị bỏ rơi gần
các khuôn viên đại học vào xế trưa. Từ đêm trước các đơn vị quân đội, có cả
tuần thám xa, đã kéo về thành phố ngăn chặn các ngả đường. Các công sự phòng
thủ, kẽm gai được giăng ra tại nhiều ngã tư và dọc đường từ Bộ Ngoại Giao tới
trường Luật, nơi cựu Ngoại trưởng Mẫu dự định đến hội thảo. Theo tin ngoại giao
Pháp những cuộc truy lùng, bắt giữ tiếp tục khắp nơi. Các trường học phải đóng
cửa để đề phòng bạo động.(CLV, SV, 17:84)
Mật Vụ Miền Trung của Dương Văn Hiếu
truy tầm và bắt giữ bất cứ ai bị nghi ngờ tham dự đảo chính hay biểu tình. Các
trại tù lớn nhất là trại Lê
Văn Duyệt (nằm trong Quân
trấn Sài-gòn, do Thái đen cầm đầu), Võ Tánh (Chợ Bà Chiểu, do Nguyễn Thiện Giai
cầm đầu), Sở Thú, bến Bạch Đằng. (Ngày 18/9/1963, Tướng Minh khẳng định với
quan chức Mỹ là trong trại Lê Văn Duyệt có tới hai trại tù giam giữ người chống
chế độ; FRUS, 1961-1963,
IV:272-3) Theo các nhân chứng, Mật vụ miền Trung tra tấn nạn nhân tàn nhẫn hơn
cả VC hay Mật thám Pháp. Có người chỉ vì ngồi chung xe một đồng nghiệp trùng
tên với một nghi can mà ông ta không hề quen biết, cũng bị bắt giam, lấy cung
và tra tấn hơn ba tháng. Nhiều nhân viên MACV và Tòa Đi sứ Mỹ cũng bị bắt vì
tình nghi liên hệ vào việc tổ chức đảo chính. (Phỏng vấn ông Phạm Chung,
một nhân chứng từng đi tù cả thời Việt Minh lẫn Diệm, năm 1999-2000)
Không khí Sài Gòn ngột ngạt
kinh hoàng.
Tối Chủ Nhật 25/8 ấy, thêm một biến cố
khác xảy ra trong hậu trường chính trị. Nhân dạ tiệc chào mừng Đại sứ Lodge tại
tư dinh Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu, ông Nhu chính thức gặp mặt một sứ
giả của Hà Nội. Đó là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn Poland [Ba Lan]
trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. (Maneli 1971, tr. 137-9). Theo Maneli, từ mùa Xuân 1963, nhiều
nhân vật ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Nhu. Trong số này có Đại sứ Pháp
Lalouette, Đại sứ India Ram Goburdhun, Đại sứ Italia d’Orlandi và Khâm sứ
Vatican d'Asta. Họ cho biết đã nói với Nhu về Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp.
Ngay sau buổi gặp sơ khởi, Maneli vội báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Đại sứ Liên
Sô Tovmassian ở Hà-nội và Hà Văn Lâu. Lâu và Đại sứ Liên Sô tán thành.
Tình hình nghiêm trọng hơn khi trong
bản tin phát thanh của đài V.O.A. vào lúc 8 giờ sáng địa phương ngày Thứ Hai,
26/8, phát ngôn viên BNG Mỹ khẳng định quân đội VNCH không đánh chiếm chùa
chiền, mà chỉ có các lực lượng trực thuộc Phủ Tổng thống, không thuộc quyền Bộ
Tổng Tham Mưu. Ngoài ra còn bình
luận rằng viện trợ Mỹ có thể bị cắt.(Lodge không hài lòng về bản tin này; FRUS, 1961-1963, III, tài
liệu 287)
Bài phát thanh này khiến ông Nhu tin
rằng Cabot-Lodge quyết định loại bỏ mình. Nhu bèn hạ lệnh bắt giữ tất cả những
người chống đối. (Ibid., III:637n2)
Ngày 27/8/1963, Đại sứ
Lalouette báo cáo về Paris rằng André Đôn tuyên bố Diệm đã lợi dụng và phản bội
lòng tin của quân đội, cuộc tấn công chùa và bắt giữ tăng ni Phật tử làm hoen ố
danh dự quân đội. Lực lượng tấn
công chùa là LLĐB của Lê Quang Tung và Cảnh sát của Cò
Túc [Tư?], dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Đính. Tung, Tư và Đính là ba trụ cột
của cuộc đảo chính do Ngô Đình Nhu cầm đầu.
Hiện nay Nhu quyền thế nhất nước. Diệm
chỉ còn là lãnh tụ thứ hai. Chân dung Diệm bị Thanh
Niên Cộng Hòa gỡ bỏ tại công
sở trong vài quận đô thành. Chính Đính cho lệnh bắt giữ Vũ Văn Mẫu ngày hôm
qua. Cũng có tin Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, đã bị bắt. (CLV, SV, 17:42)
Sau một buổi họp mật, Lodge, Harkins
cùng Richardson
quyết định tạm thời không cho Harkins tiếp xúc với các Tướng, để Conein và nhân
viên CIA khác lo việc liên lạc. Nhóm
ông Đôn-Minh sẽ được lưu ý là Mỹ không nhúng tay vào đảo chính; và khuyến cáo
ông Đôn tránh đổ máu, hoặc giảm thiểu đổ máu tối đa.
Tối đó, Đại sứ Cabot-Lodge trình ủy
nhiệm thư cho Tổng thống Diệm. Theo
Lodge, ông ta bảo thẳng ông Diệm rằng tại Massachusetts người ta nghĩ Lệ Xuân là Quốc
trưởng VNCH, và dân chúng đọc những bài báo mà Lệ Xuân gọi những vụ tự thiêu là
nướng thịt sư. Ông Diệm trả lời
rằng đã nói với Lệ Xuân vài lần, nhưng Lệ Xuân khẳng định là một Dân biểu có
quyền phát biểu ý kiến.
Khi Lodge nêu vấn đề phóng thích những
người bị bắt, ông Diệm nói đã thả gần hết. Để chứng tỏ Phật tử là thiểu số
trong nước, ông Diệm trưng dẫn một tài liệu do chùa Xá Lợi xuất bản; theo đó,
tại Việt Nam chỉ có hơn 1 triệu tăng ni, Phật tử, và khoảng 2 triệu người liên
hệ. Trước khi cáo từ, ông Diệm nhắc nhở Lodge rằng Mỹ kiều phải biết giữ trật
tự. (FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 292, 296)
Buổi gặp mặt này chẳng có gì vui vẻ.
Hôm sau, 27/8, Cabot-Lodge gặp ông Nhu. Ông Nhu yêu cầu Mỹ phải ngưng những lời
tuyên bố làm tổn hại quốc thể VNCH. Người Mỹ nói quá nhiều, trong khi tại Việt Nam người ta
nói quá ít. Về những lời tuyên bố của Lệ Xuân trên báo Life ngày 16/8, ông Nhu nói vợ mình là một
Dân biểu, có quyền tự do phát biểu ý kiến. Ông Nhu còn tuyên bố đã chỉnh đốn
lại tình hình trước ngày Lodge tới Sài-gòn (dự trù vào 26/8). Nhờ vậy, không
còn cuộc tự thiêu nào.
Những lời biện bạch của ông
Diệm về Phật giáo trong buổi sơ kiến trình ủy nhiệm thư—như Phật giáo chỉ là
thiểu số ở Việt Nam, hay Phật giáo đã bị Cộng Sản xâm nhập—và giọng điệu khiêu
khích của ông Nhu trong buổi gặp mặt ngày 27/8, đẩy Lodge vào vị thế khó thể
dung thứ ngay cả với ông Diệm. Rồi đến buổi họp báo cùng ngày 27/8 của Tướng
Tôn Thất Đính để giải thích lý do tấn công các chùa chiền, huênh hoang tự nhận
mình là “anh hùng quốc gia,” đã bẻ gãy được âm mưu của Cộng Sản, Phật Giáo và
“bọn phiêu lưu quốc tế.” Ngoài ra, còn tin đồn tòa Đại sứ sẽ bị tấn công, chiếm
đóng, âm mưu ám sát cá nhân Cabot-Lodge, v.. v... Không còn là cái tát xiếc nữa
mà đã trở thành công khai thách đố, khiêu khích.
Thời gian này, Oat-shinh-tân cũng cử
Paul Kattenburg, Trưởng đoàn Việt Nam, qua Sài Gòn thị sát tình hình. Khi tiếp Kattenburg ngày 28/8, ông
Diệm ra sức biện minh việc đàn áp Phật giáo. Trước
khi từ biệt, ông Diệm nói với người bạn quen biết đã 10 năm: "Cố giúp
chúng tôi." Kattenburg chua chát đáp: "Xin giúp chúng tôi
nữa."
Trong khi đó, nhân viên Tòa Đại sứ
tiếp tục liên hệ với các Tướng làm đảo chính. Ngày 26/8, Conein gặp Tướng
Khiêm, và một nhân viên CIA khác (Spera) gặp Tướng Khánh, hứa Mỹ sẽ tiếp tục
viện trợ sau khi thành lập chính phủ mới. Ngày 27/8, Conein hứa với Khiêm sẽ
cho gia đình các Tướng an toàn ra ngoại quốc trong trường hợp đảo chính thất
bại, và sẽ cung cấp sơ đồ phòng thủ trại Long Thành của LLĐB. Hôm sau, 28/8, Conein
giao cho Khiêm sơ đồ phòng thủ nói trên. Ngày 29/8, một nhân viên CIA gặp cả
hai Tướng Minh và Khiêm. Để trấn an các Tướng, Phillips tìm gặp riêng Tướng
Kim, xác định rằng Lodge đã phái nhân viên CIA trên đến gặp Minh và Khiêm, và
còn thêm rằng chính Tổng thống Kennedy cho lệnh. Khi Kim muốn người Mỹ tiếp tay
thảo kế hoạch, Lodge cũng đồng ý.(FRUS, 1961-1963, IV:79-80) Viên chức
Mỹ còn thu xếp để các nhóm và cá nhân chống chế độ hợp tác với các Tướng.
Nhưng nhóm Tướng Minh vẫn còn nghi
ngại bị người Mỹ gài bẫy. Ngày 29/8, khi Trung tá Conein tiếp xúc, ông Minh nói
không tin Kennedy đồng ý cho làm đảo chính; ngoại trừ trường hợp Mỹ tuyên bố
ngưng viện trợ kinh tế cho chế độ Diệm. Lodge vội gửi điện văn về
Oat-shinh-tân, và ngày 30/8, Hội đồng ANQG Mỹ chấp thuận yêu cầu của Tướng
Minh.(Gravel, II: 238-239, 738-739; FRUS,
1961-1963, IV:21, 32-3) Ngày 29/8 [30/8 VN], HĐ/ANQG Mỹ còn cho lệnh Tướng
Harkins tiếp xúc với các Tướng để họ hết hoài nghi, đồng thời nhấn mạnh Mỹ muốn
loại bỏ vợ chồng Nhu, nhưng không đề cập gì đến số phận ông Diệm.
Anh em ông Diệm-Nhu đã đoán biết âm
mưu của các Tướng nên điều động Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB] của Lê Quang Tung vào
thủ đô, chốt chặn các vị trí bằng thiết giáp. Tối ngày 29/8, có tin ông Nhu sẽ
bắt giữ các Tướng chủ chốt trong vòng 24 giờ. Nhân viên CIA cấp tốc báo động
cho Tướng Kim, nhưng việc này không xảy ra.
[Người báo tin có thể là ký
giả Mỹ, hay một nhân viên thân cận với Dinh Gia Long, vì nhân vật mà tên họ
chưa được giải mật này đã từng tiết lộ trước tin các chùa chiền sẽ bị tấn công
đêm 20 rạng 21/8]
Ngày 30/8, ông Nhu triệu tập các Tướng
ở Bộ Tổng Tham Mưu, tuyên bố vụ rắc rối với Phật giáo đã qua, nhưng những kẻ
đứng sau lưng chưa bỏ cuộc. Nhiệm vụ của quân đội là phải nghe lệnh chính phủ.
CIA muốn Nhu ra đi. Có nỗ lực vận động báo chí quốc tế chống lại VNCH. Nhiều
viên chức Mỹ tại Sài-gòn xúi dục và cổ võ các phóng viên, ký giả chống lại
chính phủ Việt Nam.
Đại sứ Lodge đã hiểu rõ tình thế hơn, và Nhu có thể lèo lái ông ta. Theo Tướng
Khiêm, ông Nhu còn tâm sự sẽ theo bất cứ điều gì người Mỹ muốn và được Tổng
thống Kennedy ủng hộ. Nhu nói thân với Richardson, Trưởng sở CIA.(FRUS,
1961-1963, IV:90-2) Những lời tuyên bố của ông Nhu ít nữa cũng có một tác
dụng tâm lý: Những người âm mưu đảo chính không khỏi lo âu về tâm ý thực sự của
người Mỹ. Các Tướng còn phân vân chẳng hiểu vợ chồng Nhu có ăn lương CIA hay
chăng.
15 Tướng tham dự, kể cả Trần Văn Đôn,
Dương văn Minh, Trần Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Nghiêm, Lê Văn Kim,
Phạm Xuân Chiểu, Trần Tử Oai, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Là, Trần Ngọc Tám,
Nguyễn Giác Ngộ, Văn Thành Cao, Mai Hữu Xuân, Huỳnh Văn Cao.
Quan trọng hơn nữa, nhóm Big
Minh cảm thấy chưa có đủ lực lượng, vì chưa thuyết phục được Tướng Tôn Thất
Đính, Tư lệnh Vùng III kiêm Tổng trấn Sài Gòn.
[Nỗ lực thuyết phục Đính đã
bắt đầu sau cuộc họp báo ngày 27/8 của Đính. Phe đảo chính dùng kế khích tướng,
dèm pha rằng Đính đã bị Nhu lừa, và chính phủ Diệm phải chịu ơn Đính mới đúng.
Rồi xúi Đính vào gặp Diệm, yêu cầu Diệm phong mình làm Bộ trưởng Nội Vụ. Diệm giận
dữ từ chối, bắt Đính lên Đà-lạt "nghỉ phép." Lợi dụng cơ hội, nhóm
đảo chính thuyết phục Đính ngả theo. Tuy nhiên, Đính chưa quyết định dứt
khoát].
[Theo Dương Văn Minh, mãi
tới tháng 10/1963, Tôn Thất Đính mới đi tìm ông Minh. Sau một hồi chuyện vãn, Đính
đột ngột nói: “Đại ca, quê hương chúng ta đang bị nguy hiểm. Đại ca bảo tôi
phải làm gì?” Ông Minh ra chỉ thị cho Tướng Đính về đảo chính. Những ngày kế
tiếp, ông Minh tìm cách hòa giải giữa Tướng Đính và Kim vì sau cuộc đảo chính
hụt 11/11/1960, Đính đã cho lệnh bắt giữ Kim, lúc ấy đang là Chỉ Huy trưởng
trường Đà-lạt. (VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 361-2) Ngày 26/5/1964, ông Khánh nói với Cabot-Lodge rằng
sau khi nghiên cứu hồ sơ của Ngô Đình Diệm về cuộc đảo chính 11/11/1960, những
người chủ mưu có liên hệ chặt chẽ với Pháp và muốn ủng hộ Kim làm Thủ tướng.(FRUS,
1964-1968, I:381)].
Cuối cùng, sau hơn 24 giờ cắt liên lạc
với tình báo Mỹ, sáng Thứ Bảy, 31/8, ông Khiêm mới báo cho Tướng Harkins biết
rằng kế hoạch đảo chính vào ngày hôm sau, 1/9, bị tạm gác. Theo Khiêm, Big Minh
vẫn chưa thực sự tin chính phủ Mỹ đồng ý cho đảo chính vì cấp bậc của Conein
quá nhỏ; cần những người như Harkins hay Lodge xác định. Do đề nghị của
Harkins, Khiêm hứa sẽ dàn xếp cho Harkins gặp Tướng Minh. Đồng thời tiết lộ rằng
André Đôn có kế hoạch yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ, đưa ba Tướng nắm các
bộ Quốc Phòng, Nội Vụ và Tổng Nha Thông Tin; Ngô Đình Nhu sẽ làm Thủ tướng hoặc
điều hợp tổng quát.(Gravel, II:265; FRUS,
1961-1963, IV: Tài liệu 32, 33 [tr.65-6])
Chiều đó, khi gặp Phillips, Lê Văn Kim
nói Nhu và LLĐB của Lê Quang Tung phòng thủ kỹ càng, khó thể hành động. Sẽ tiếp
tục chuẩn bị, nhưng cần bí mật. Khi
Phillips nói Khiêm đã gặp Tướng Harkins và tuyên bố các Tướng đồng ý cho Nhu
làm Thủ tướng; đổi lại, quân đội được nhiều quyền hơn, Kim rất giận dữ. Kim hẹn
gặp lại vào buổi tối. Khi gặp lại, Kim nói Khiêm không báo cáo gì cho Minh về
buổi gặp Harkins. Các Tướng không bao giờ chấp nhận Nhu; họ chưa thể ra tay vì
Nhu và Tung đã chuẩn bị, và các Tướng thiếu phương tiện. (FRUS, 1961-1963,
IV:64-6)
Lý do nào đi nữa, âm mưu đảo
chính ngày 1/9 phải đình hoãn. Lúc 18G00 ngày 31/8, Lodge báo cáo về
Oat-shinh-tân là các Tướng chẳng có tinh thần hay tổ chức để thực hiện.
[Theo tờ Times of Viet-Nam, cơ quan
ngôn luận bán chính thức của vợ chồng ông Nhu, cuộc đảo chính này dự trù vào
ngày 28/8, nhưng bị ông Nhu bẻ gãy bằng cách tuyên bố Thiết quân luật ngày
21/8; Times of Viet-Nam,
2/9/1963; Công điện số 747, ngày 2/9/1963, Saigon gửi Paris; CLV, SV, 17:51]
Ngày 4/9, cơ quan CIA Sài-gòn nhận
định về âm mưu đảo chính thất bại trên như sau: Hai bên “không thắng, không bại.”
Diệm-Nhu biết rằng Mỹ khuyến khích các Tướng làm đảo chính, và CIA nhúng tay
vào vụ này. Có thể họ biết gần hết những phương cách CIA đã thực hiện. Có thể
chính phủ VNCH nhận hiểu họ còn gặp khó khăn với các lãnh đạo quân đội, đa số
dân chúng, và chính phủ Mỹ. Diệm-Nhu đang thẩm giá sự kiện chính phủ Mỹ yểm trợ
một lãnh đạo khác và sẽ đi đường xa để khuyến khích, và yểm trợ lãnh đạo mới
ấy. Bước sắp tới, cả hai chính phủ VNCH và Mỹ phải đạt được thỏa thuận để Mỹ có
thể tiếp tục viện trợ, dù thay đổi đôi chút về hình thức cũng như việc thực
thi. (FRUS, 1961-1963, IV:92-3)
2. Cuộc đảo
chính ngày 1/11/1963:
Sau khi các Tướng tạm ngừng đảo chính, người Mỹ chẳng có lựa chọn nào khác
hơn tiếp tục liên hệ với chính phủ Diệm. Một mặt, Oat-shinh-tân thực hiện kế
hoạch “áp lực và thuyết phục” [Pressures and Pursuasion Track].(Hilsman,
To Move A Nation, tr. 508) để loại anh em ông Diệm. Mặt khác, Cabot-Lodge
vẫn mở cửa cho một giải pháp đảo chính.
a. Thục và Lệ Xuân
ra đi:
Ngay trong ngày 31/8, Cabot-Lodge điện
về Oat-shinh-tân, yêu cầu chuyển sang áp lực ông Diệm thay đổi nhân sự và chính
sách Phật Giáo qua phương thức “áp lực và thuyết phục.” Về nhân sự, cần ông
Thục và bà Lệ Xuân rời nước; ông Nhu sẽ lo kế hoạch ấp Chiến lược; và lập thêm
chức Thủ tướng, giao cho ông Nguyễn Đình
Thuần phụ trách. Về chính sách, cần phóng thích sinh viên, học sinh, tăng sĩ và
Phật tử, hủy bỏ Luật số 10, các chùa chiền phải được giải tỏa và trùng tu, và
chính phủ tỏ thái độ hòa hoãn với Phật Giáo. Lodge yêu cầu đích thân Kennedy
tuyên bố những điều kiện trên tại Oat-shinh-tân.(FRUS, 1961-1963,
IV:66-7) Lodge cũng thêm rằng có tin Nhu đang bí mật tiếp xúc với Cộng Sản qua
trung gian hai đại sứ Pháp và Poland [Ba Lan], vì hai chính phủ này muốn một
giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam. (Maneli đã tiết lộ với CIA
việc tiếp xúc với ông Nhu; rồi ngày 30/8, Đại sứ Lalouette cũng xác nhận với
Lodge về việc Nhu móc nối với Cộng Sản). Để tạo áp lực tâm lý, từ nay,
Lodge không nói chuyện với anh em ông Diệm-Nhu nữa nếu chưa tham khảo Bộ Ngoại
Giao. Chính phủ Việt Nam,
theo Lodge, đã hành xử như “những kẻ dối trá và tội phạm” [has acted
both as liars and criminals].
Trong buổi họp tại Bộ Ngoại Giao sáng
Chủ Nhật, 31/8 (khoảng nửa đêm cùng ngày tại Sài Gòn), Phó Tổng thống Johnson
và các cố vấn của Kennedy không đi đến quyết định rõ ràng nào. Đa số muốn cho ông Diệm cơ hội chót,
tức vẫn giữ ông Diệm, chỉ đưa ông Thục, và bà Lệ Xuân rời nước; riêng ông Nhu
sẽ chỉ còn lo kế hoạch ấp Chiến lược.(FRUS, 1961-1963, IV:69-74, 80-1)
Oat-shinh-tân chỉ thị Lodge tiếp xúc lại với ông Diệm, và Kennedy sẽ dùng buổi
họp báo ngày 2/9 tại Mỹ để áp lực (như Lodge đã đề nghị). Nếu không thể dùng
đường lối ngoại giao và chính trị để thuyết phục, Mỹ sẽ tạm ngưng viện trợ.
Ngoại trưởng Rusk còn cho lệnh Lodge, nếu cần, bảo thẳng ông Diệm phải chứng tỏ
cho người Mỹ thấy rằng chính phủ Kennedy “không thể đòi hỏi quốc dân Mỹ bị giết
để yểm trợ Bà Nhu trong khát vọng nướng thịt sư.”(Ibid., IV:76-9)
Ông Nhu dường như bất chấp áp lực của
Mỹ. Ngày 1/9, các báo thủ đô chạy tin lớn trên trang nhất lời tuyên bố ngày
29/8 của Tổng thống Pháp de Gaulle—đề nghị hai miền Bắc và Nam tham dự một hội
nghị hoà bình, thống nhất, và trung lập hoá miền Nam.(CLV, SV, 91:156) Thực ra,
de Gaulle chỉ lập lại những gì đã từng nói với Kennedy trong chuyến thăm Pháp
từ 31/5 tới 2/6/1961. Nhưng ở
thời điểm liên hệ Mỹ-Việt đang căng thẳng này, đề nghị của de Gaulle mang một ý
nghĩa đặc biệt. Nói theo Bộ
trưởng Văn hóa Trương Công Cừu, chính phủ Diệm “hiểu rõ mọi hàm ý của Paris.” Ông Nhu cũng đã
cho Bản tin Việt Tấn Xã ngày 30/8 đăng trên trang nhất trọn bài diễn văn của de
Gaulle.
Thật khó đoán de Gaulle có hàm ý gì.
(Thời gian này, Trần Văn Hữu cũng chủ trương trung lập, và có liên hệ với Bộ
Ngoại Giao Pháp. Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam cũng cổ
võ trung lập.) Chỉ biết lời tuyên bố trên gây sôi nổi dư luận Mỹ. Ngày 30/8, New York Herald Tribune nhận định rằng de Gaulle muốn yểm trợ
Diệm, gây ảnh hưởng ở Việt Nam. Tờ New York Times cho rằng de Gaulle bày tỏ sự bất mãn
với chính sách Mỹ. Tờ Washington Post nghĩ de Gaulle muốn Pháp sẽ thay thế
Mỹ. Phía sau hậu trường, ngày 30/8 [31/8 tại Việt Nam], Đại sứ Pháp Hervé
Alphand giải thích với Ngoại trưởng Rusk rằng giải pháp trung lập có thể thực
hiện được vì hiện nay Mao Trạch Đông muốn chiến tranh, trong khi Hồ Chí Minh
muốn hòa bình, và Hồ vốn chống Trung Hoa. Rusk
không đồng ý, coi nền trung lập giả hiệu ở Việt Nam
là điều nguy hiểm nhất, sẽ tạo nên những khó khăn cho các nước lân bang, kể cả Indonesia.
Alphand hứa sẽ tuyên bố với báo chí rằng Pháp không có ý định dàn xếp với Diệm
hay bành trướng ảnh hưởng và làm hại Mỹ. Rusk đề nghị Alphand giải thích rằng
lời tuyên bố của de Gaulle phản ảnh quan điểm dài hạn của Pháp. Alphand cũng
hết sức bệnh vực ông Diệm. Theo Alphand, mặc dù Diệm không được ưa thích, nhưng
chưa tìm được ai thay. Rusk xác nhận không chống ông Diệm mà khó khăn chính là
Nhu. Rồi hỏi ý Alphand về việc cho Nhu qua Pháp; Alphand đáp không hiểu Nhu có
chịu qua Pháp nghỉ hưu hay chăng. (FRUS, 1961-1963, IV:59-61)
Tại Sài Gòn, Đại sứ Lalouette cũng
muốn hòa giải giữa ông Diệm và Cabot-Lodge. Nhân dịp Lodge đến thăm xã giao,
ngày 31/8, Đại sứ Pháp ca ngợi
ông Diệm là quốc trưởng có khả năng nhất ở Đông Nam á; nhưng không là một nhà
chính trị, không biết ăn nói, không biết cách gây thiện cảm với báo chí, v..
v... Phần Nhu rất thông minh, phụ giúp Diệm đắc lực. Theo Lalouette, ông Diệm
có thể chiến thắng CS. Hiện trạng
tại Việt Nam
là do giới truyền thông tạo nên. Báo chí đã tạo nên sự xúc động quá mức ở hải
ngoại hơn trong nước. Trong thời Pháp thuộc, nhiều sư tự thiêu nhưng chẳng gây
nên phản ứng gì trong dân chúng. Tình
hình đã êm dịu dần. Phật tử được phóng thích, Luật số 10 sẽ bị rút lại. Các
chùa sẽ được sửa chữa do chính phủ chịu phí tổn. Một lễ sẽ được tổ chức tại
chùa Xá Lợi. Lệ Xuân sắp rời nước trong vài tháng để thăm India và Mỹ.
Lalouette thêm rằng các viên chức Việt muốn được nói chuyện với Lodge, nhưng
Lodge đứng xa, nên họ lùi lại. Rồi Lalouette đi thẳng vào vấn đề, hỏi: “Cần
làm gì để hài lòng Mỹ?” Lodge đáp: “Loại bỏ vợ chồng Nhu.”
Lalouette nghĩ rằng chuyện này không được, và đề nghị đưa một ai đó lên làm Thủ
tướng, giảm bớt trách nhiệm của Nhu. Vẫn theo Lalouette, trong một hai năm nữa,
chiến tranh du kích sẽ tàn đi. Việt Cộng đang thất vọng, và tinh thần xuống rất
thấp ở miền Bắc. Khi cuộc chiến tranh du kích chấm dứt, sẽ có thể giao thương,
gạo miền Nam, than miền Bắc. Sau đó sẽ đi đến thống nhất. Khi Lodge từ biệt,
Lalouette nói: Hãy trấn an dư luận Mỹ và đừng đảo chính. (FRUS, 1961-1963,
IV:58-9)
Lời khuyên của Lalouette khó thay đổi
định kiến của Lodge với chế độ Diệm, những người mà Lodge đánh giá như “dối trá
và tội phạm.” Chiều Thứ Hai, 1/9,
Cabot-Lodge áp lực ông Nhu phải thực hiện ngay lời hứa với Đại sứ Nolting từ
ngày 10/8: Đó là bắt Tổng Giám Mục Thục rời nước và Lệ Xuân ra đi. Phần ông Nhu
cũng đồng ý rút lên Đà Lạt.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 288, 325-6,
336-7, 339-41)
Ông Nhu chưa chịu buông
xuôi, quyết đổ thêm dầu vào lửa. Sáng ngày 2/9, ông Nhu tiếp Maneli ngay tại
Dinh Gia Long. Trưa đó, tờ Times
of Vietnam đi một bản tin nẩy lửa, 8 cột, với tựa
"CIA Financing Planned Coup d' état" [CIA tài trợ kế hoạch
đảo chính], lên án Mỹ và CIA đã âm mưu tổ chức cuộc đảo chính vào ngày 28/8
nhưng không bị Nhu bẻ gãy. Theo báo này, từ tháng 1/1963, các chuyên viên đảo
chính Mỹ—từng thành công ở Turkey,
Guatemala, Đại Hàn, nhưng
thất bại ở Iran và Cuba—lũ lượt kéo tới Việt Nam. Mỹ đã tiêu từ 10 tới 24 triệu MK để thực hiện đảo chính, và quĩ mật này
Quốc hội Mỹ không hề hay biết. Kế hoạch đảo chính thoạt tiên dự trù vào ngày
28/8, nhưng phải ngưng lại vì Việt Nam đã ra tay trước, thiết quân
luật từ ngày 21/8. Các ký
giả quốc tế ở Manila đã được “tin mật” rằng Diệm sẽ dừng lại ở Manila vào ngày
29/8, trên đường lưu vong. Giờ mưu định đảo chính là 11 giờ tối ngày 28/8,
nhưng sau đó phải hoãn lại vì chính phủ Việt Nam biết rõ mọi chi tiết, và cương
quyết chống đến cùng, cho dẫu phải tử chiến trên đường phố Sài-gòn. Tổng thống
de Gaulle, vẫn theo báo này, tỏ ra rất bất mãn (indignant) vì một cuộc
đảo chính tương tự không dễ dàng thành công, chỉ làm lợi cho Cộng Sản. Với cuộc
tranh đấu của Phật Giáo, tờ báo Mỹ ngữ của ông Nhu thách đố các tu sĩ tiếp tục
tự thiêu. (CĐ số 747, ngày 2/9/1963, Sài-gòn
gửi Paris; CLV, SV, 17:51)
Sự khiêu khích mới này khiến
Cabot-Lodge khó tha thứ cho ông Nhu. Nhưng người Mỹ thường tự hào họ là người
của hành động [doers]; và, chẳng mấy quan tâm đến những lời sỉ vả, nhục mạ thô
tục mà người Á Đông ưa thích (kiểu Mao Trạch Đông cho quân lính xếp hàng dài
theo biên giới Nga, đồng loạt tụt quần trận, chổng mông về phía phòng tuyến
Nga).
Bởi thế, Cabot-Lodge đẩy mạnh hơn kế
hoạch “chuyển tiếp” của mình. Để tạo thêm áp lực, Lodge khai thác tối đa hành
động ve vãn Cộng Sản của ông Nhu, với sự tiếp tay của Pháp.
Như đã lược nhắc, từ đầu năm 1963, nếu
không phải sớm hơn, ông Nhu đã tìm cách tiếp xúc Cộng Sản (kể cả Phạm Hùng, đặc
phái viên miền Bắc). Môi giới của ông Nhu là Đại sứ Lalouette và có thể ngay
chính Giáo hoàng John XXIII (1958-1963). Nhân vật Maneli, Đại diện Ba Lan
(Poland) trong Ủy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình Chiến (ICC), chỉ là mặt nổi phụ
thuộc, để ông Nhu dằn mặt người Mỹ về khả năng “ve vãn Cộng Sản” của mình.
Nhưng đây lại là bằng chứng hiển nhiên duy nhất Lodge có trong tay về sự “phản
bội” [chiến lược chống Cộng] của ông Nhu.
[Sau khi gặp ông Nhu ngày 25/8, Maneli
thú nhận với Sở CIA Sài-gòn rằng Đại sứ Pháp làm trung gian cho Nhu tiếp xúc
Phạm Văn Đồng. (Ngày 30/8, nhân viên CIA tiết lộ tin trên). Cabot-Lodge bèn nhờ
một người bạn tiếp xúc với Maneli để khai thác thêm tin tức. Theo nhân vật còn
dấu tên này, từ nhiều tháng trước, Nhu đã chủ trương trung lập hóa và thống
nhất Việt Nam.
Maneli yêu cầu một người
[chưa rõ tên] làm trung gian để gặp Nhu, nói Maneli sẵn sàng làm chim xanh giữa
Nhu với Đồng. Nhu đồng ý cho vợ đi dự Hội nghị Dân biểu Quốc tế để giữ sĩ diện.
Trong khi đó, Nhu tuyên bố với các Tướng rằng đừng sợ Mỹ cắt viện trợ, vì nếu
thế, sẽ có những nguồn tài trợ khác. Nhu cũng có thể liên lạc với Hà-nội, yêu
cầu giảm bớt cường độ chiến tranh, trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh
viễn.
Mật báo viên trên thêm rằng Nhu muốn
thương thuyết với Mỹ. Nếu Cố vấn chính trị Trueheart của Tòa Đại sứ gặp Nhu, có
thể có giải pháp.] (FRUS, 1961-1963, IV:89-90)
Bởi thế, sau khi ông Nhu
tiếp Maneli ngay tại Dinh Gia Long vào sáng ngày 2/9 để nhờ bàn việc hiệp
thương, thống nhất với Phạm Văn Đồng, Lodge báo ngay về Oat-shinh-tân xin lệnh.
(FRUS, 1961-1963, IV:84-5) Chiều ngày 2/9 đó, Lodge đích thân vào Dinh
Gia Long gặp ông Nhu. Để tăng
cường áp lực, Lodge mang theo cả Đại sứ Italia d’Orlandi và Khâm sứ Vatican
d’Asta, vì hai người này là nhân chứng trong các âm mưu “ve vãn Cộng Sản” của
ông Nhu (mà theo hình luật đương thời như Sắc Luật 47 ngày 21/8/1956 và 10/59
ngày 6/5/1959), sẽ bị kết án từ chung thân khổ sai tới tử hình). (VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 340-1, 102, 151).
Khó thể chối cãi việc ve vãn Cộng Sản,
và trước đề nghị của Mỹ, Nhu đồng ý sẽ từ chức, rút lên Đà-lạt sau khi bãi bỏ
Thiết quân luật, tức sau khi số nhân viên Mỹ tổ chức đảo chính đã rời Việt Nam.
Nhu cũng muốn đài phát thanh Mỹ ở Việt Nam
ngừng đả kích chính phủ; và tuyên bố từ nay người Mỹ nào vào Việt Nam cũng cần
chiếu khán [visas]. Lệ Xuân sẽ rời Sài-Gòn ngày 17/9 để dự Hội nghị các Dân
biểu tại Yugoslavia.
Thục sẽ rời nước trong một tương lai gần. Nhu cũng đồng ý chính phủ sẽ có một
Thủ tướng. Về kinh viện, Nhu muốn được vay dài hạn, với lãi xuất thấp, hơn là
viện trợ. Như thế người Mỹ tránh được trách nhiệm về những gì người Việt làm.
Nhu nói không thể rời nước vì lý do
tiếp xúc với Việt Cọng; những cán bộ VC này đã rất chán nản và muốn ngừng hoạt
động (?). Sáu tháng trước, một Đại tá VC muốn đào ngũ với 3 tiểu đoàn, nhưng
Nhu khuyên ông ta ở lại
biên giới Lào chờ cơ hội thuận tiện. Một
Tướng VC ở Miên cũng muốn gặp Nhu. Không những VC đang thất vọng mà còn cảm
thấy đang bị Bắc Việt lợi dụng. Nhu tiên đoán trong tương lai BV phải tiếp tế
bằng không quân. Tiếp vận đường biển đã bị ngăn cản, và đường bộ cũng hầu như
bất khả.(sic) Nếu tiếp tế bằng phi cơ, sẽ bị phòng không bắn hạ.
Về cuộc gặp gỡ Maneli, Nhu nói Maneli
đã yêu cầu Nhu chú ý đến tuyên bố của de Gaulle [ngày 29/8] và Hồ Chí Minh
[ngày 29/5], rồi hỏi Nhu muốn chuyển lời gì cho Phạm Văn Đồng. Nhu trả lời
“Chẳng có gì cả.”
Nhu cũng nói Trung Cộng đề
nghị bán 2 phi cơ U-40.
Theo đúng lớp lang dự trù, tại Mỹ,
trong buổi phỏng vấn truyền hình với Walter Cronkite trên đài CBS ngày 2/9,
Kennedy tuyên bố chính phủ Diệm đã "xa rời quần chúng," cần thu phục
lại sự yểm trợ của mọi người, và thay đổi về chính sách cùng nhân sự. Cuộc chiến Việt Nam là của
chính người Việt, Mỹ chỉ có thể tiếp sức. Diệm không thể chiến thắng nếu tình
trạng hiện tại không thay đổi. Việc đàn áp Phật tử, Kennedy tiếp, rất không
khôn ngoan. Không thể chiến thắng bằng đường lối này. Kennedy hy vọng chính phủ
[Diệm] phải thấy rõ rằng họ cần thực hiện những bước để lôi kéo lại sự yểm trợ
của đám đông trong cuộc chiến tối thiết này. Được hỏi liệu chính phủ [Diệm] còn
thời gian để lấy lại sự ủng hộ của đám đông, Kennedy nói nếu thay đổi chính
sách, và có lẽ với thay đổi nhân sự, vẫn có thể lôi kéo được sự ủng hộ của quần
chúng. Nếu chính phủ [Diệm] không thay đổi, cơ hội để chiến thắng không được
tốt. Về bài diễn văn của de Gaulle, Kennedy tuyên bố không hiểu de Gaulle muốn
gì. Tuy nhiên, cần lắng nghe những gì de Gaulle tuyên bố vì de Gaulle không
phải là kẻ thù của Mỹ. Kennedy cũng khen ngợi Cabot-Lodge đã đặt quyền lợi quốc
gia Mỹ lên trên sự nghiệp chính trị khi nhận chức Đại sứ ở Việt Nam. (FRUS,
1961-1963, IV:tài liệu 50)
Trưa hôm sau, 3/9, Kennedy phê chuẩn
công điện chỉ thị cho Lodge gặp lại Diệm. Đồng thời cho phép Lodge và Harkins,
nếu các Tướng tiếp xúc trở lại, cần khẳng định Mỹ không thay đổi lập trường.(FRUS,
1961-1963, IV:100-3) Tối đó [10G35 ngày 4/9 VN], McNamara, Rusk và Bundy vội chỉ
thị Lodge nối lại liên lạc trực tiếp với Diệm mà không cần qua trung gian Nhu,
vì mặc cả với Nhu chẳng khác nào nhìn nhận sự thăng tiến của Nhu. Trong buổi
gặp Diệm lần đầu, Lodge phải giải thích về ý định của Kennedy qua bài diễn văn
trên CBS: Kennedy rất mong chiến thắng và hy vọng rằng chính phủ VNCH hiểu được
tầm quan trọng của sự thay đổi nhân sự. Lodge cần chứng tỏ sự bất bình của Mỹ
về vấn đề đàn áp Phật giáo, vì sẽ làm hại nỗ lực chiến thắng CS. Mỹ không muốn
lật đổ chính phủ, nhưng sẽ tìm cách cải thiện nó. Sau khi Lodge gặp Diệm,
Harkins sẽ lại gặp Diệm và Thuần như thường lệ để lo việc chiến tranh. (FRUS, 1961-1963, IV:104-6)
Như để trả lời Kennedy và Lodge, ngày
4/9 Nhu sai Đính họp báo lần thứ hai. “Anh hùng quốc gia” Đính giải
thích về danh từ "aventurier internationaux" bị vấp mắc
trong tuần trước, và khẳng định tất cả các tướng lãnh Việt coi Ngô Đình Nhu như
lãnh tụ, và tất cả đều tin cậy Nhu sẽ mang đến chiến thắng CS.(Báo cáo ngày
5/9/1963, Lalouette gửi Couve de Murville; CLV, 17:7; Đính 1998, tr. 418-20)
Trong khi đó, khi Lalouette vào gặp,
ông Diệm nói tình hình nghiêm trọng vì các sư trẻ cực đoan đã thay thế những
nhà sư lớn tuổi, khả kính cũ. (CLV,
SV, d. 18) Nhu thì tiết lộ với Lalouette là có
thể dàn xếp với Việt Cọng để chấm dứt chiến tranh, và để thực hiện việc này,
Nhu sẽ yêu cầu Mỹ triệt thoái một số quân. Thuật lại với Lodge chuyện này xong,
Lalouette nhấn mạnh rằng không thể thay Diệm-Nhu, và Mỹ phải hợp tác với họ. (FRUS,
1961-1963, IV:111) Bởi thế, ngày 4/9, Lodge xin phép được giải quyết mọi
việc với Nhu trước khi gặp Diệm. Rusk
đồng ý.(FRUS, 1961-1963, IV:111)
Việc này chưa xong, việc khác đã xảy
ra. Ngày Thứ Năm, 5/9, nhân viên ngoại giao Tây Germany trao cho sứ quán Mỹ bài
phỏng vấn Lệ Xuân trên báo Der Spiegel. Theo
Lệ Xuân, Lodge đang âm mưu loại bỏ hoặc ám sát Lệ Xuân. Tổng thống Diệm quá yếu, cần sự yểm
trợ của Lệ Xuân. Những khó khăn hiện nay là do báo chí bịa đặt và sự can thiệp
của Mỹ. (Lệ Xuân nhìn nhận với một nhân viên Mỹ là đã viết phần lớn bài phỏng
vấn này; FRUS, 1961-1963,
IV:Tài liệu 68)
Tối 5/9 [09G42 ngày 6/9 VN], Hilsman
cho Lodge một vũ khí áp lực mới: Tiểu ban Viễn Đông của ổy Ban Ngoại Giao
Thượng viện tỏ ý nghi hoặc về khả năng lãnh đạo của Diệm-Nhu, và sự can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam. Tiểu ủy ban muốn có một giải pháp cho cuộc khủng hoảng
hiện tại để có thể duy trì viện trợ. Thượng
viện Mỹ nghĩ rằng dân chúng Mỹ không muốn yểm trợ một chính phủ đàn áp dân
chúng và các tổ chức tôn giáo. Tiếp tục yểm trợ một chế độ như thế đi ngược lại
nguyên tắc căn bản dân chủ. Các
vấn đề khiến Thượng viện lưu tâm nhất là đường lối nguy hại của Diệm-Nhu, những
nguy hiểm Mỹ bị đồng hóa với những chế độ đàn áp dân chúng tại Việt Nam và các
nơi khác, những bài tường thuật trên báo chí về việc Nhu móc nối với Cộng Sản,
sự thất bại của Mỹ khi không thể thay thế Diệm-Nhu, sự vắng thiếu định hướng
của Mỹ. (FRUS, 1961-1963, IV:113) Ngay sau khi được công điện của
Hilsman, Lodge trao cho đại sứ Italia và đại diện Vatican đọc, nhờ họ gặp Nhu,
bảo thẳng Nhu rằng vợ chồng Nhu phải rời Sài Gòn trong 6 tháng. (Ibid.)
Sáng ngày 6/9, trong khi chờ d’Orlandi
và d’Asta chuyển lời của mình, Cabot-Lodge sai nhân viên CIA vào gặp Nhu. ìng
Nhu tuyên bố chẳng dính líu gì đến bài báo trên Times of Vietnam ngày 2/9; và ông Diệm không ưa Trần
Văn Khiêm, nên không hề có việc cho Khiêm tái lập Sở Nghiên Cứu (Mật vụ). Đồng
thời, Nhu chỉ trích một số nhân viên Mỹ cấp thấp tung tin chống chính phủ. Được
hỏi về việc liên lạc với Hà-nội, Nhu nói Đại sứ Italia d'Orlandi và đại diện
India tại Ủy Ban Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến, Goburdhun, đã yêu cầu Nhu gặp
Maneli. Maneli khuyên Nhu nên lợi dụng những lời tuyên bố của de Gaulle và Hồ
Chí Minh để thương thuyết với Hà-nội, và tự nhận đại diện cho Phạm Văn Đồng. Đề
nghị miền Nam bán gạo và bia cho miền Bắc, đổi lấy than đá. Tuy nhiên, Nhu chối
việc thương thuyết với Hà-nội, nói chỉ tiếp xúc Việt Cọng ở miền Nam. Nhu cũng
hoàn toàn chống lại trung lập.
Về cuộc khủng hoảng Phật giáo, Nhu cho
rằng mình bị biến thành dê tế thần. Từ sau ngày 21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính
sách hòa hoãn. Nhu cũng tuyên bố không chống Mỹ. Nhân viên CIA không tin lời
Nhu, cho rằng Nhu dối trá. (FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69)
Tối đó, 6/9, d'Orlandi và d'Asta gặp
Nhu, chuyển chỉ thị ngày 5/9 của Hilsman là vợ chồng Nhu phải ra đi. Nhu bị xúc
động mãnh liệt, nói muốn thảo luận với Lodge. Hai đại diện của Lodge trả lời
rằng không còn gì để “mặc cả.” Nhu chỉ có một lựa chọn: Rời khỏi Việt Nam trong 6
tháng. Tùy Nhu muốn nhận hay chối từ. (FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu
63)
Ông Nhu mất hẳn bình tĩnh,
tuyên bố:
Tôi là con ngựa thắng
cuộc. Họ phải bắt độ (bet) trên tôi. Tại sao họ muốn chấm dứt tôi? Tôi không
muốn chỉ làm cố vấn cho Tổng thống Diệm, mà cho cả Cabot-Lodge. Tôi có thể rời Việt Nam một tháng,
nhưng chuyện gì xảy ra cho 100 ấp chiến lược. Tôi đã biết chuyện gì xảy ra
trong giới nhà binh. Nếu tôi rời nước, họ sẽ cướp chính quyền. Bọn cóc nhái
[grenouillards] của CIA và USIS sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh.
Nhu nói thêm Lệ Xuân sẽ rời
nước ngày 9/9 để nghỉ hè ở ẽu Châu trong hai hay ba tháng. Nhu không rời nước,
chỉ từ chức, không dính líu gì đến ấp chiến lược nữa. Một thời gian sau, sẽ
xuất ngoại ba bốn tháng. Khi từ chức Nhu sẽ nói thẳng ra là bị đuổi đi [kicked
out]. (Ibid., Tài
liệu 72)
Tại Oat-shinh-tân, HĐ/ANQG họp liên
tiếp trong ngày 6/9 [chiều và khuya ngày 6/9 tại Việt Nam] về chính
sách đối với chế độ Diệm. Ai nấy đều đồng ý vợ chồng Nhu phải ra đi. Kennedy
cũng muốn Lodge liên lạc trực tiếp với ông Diệm, không nên quá tin tưởng ở các
trung gian. Để có nhiều yếu tố hơn trước khi quyết định số phận chế độ Diệm—tức
duy trì ông Diệm hay thay bằng một lãnh đạo mới, như Nguyễn Ngọc Thơ, Dương Văn
Minh, v.. v...—Kennedy gửi Tướng Victor Krulak và Joseph Mendenhall qua Việt Nam để nghiên
cứu tình hình tại chỗ từ ngày 6 tới 9/9/1963. (FRUS,
1961-1963, IV:117-20)
Chiều đó [8G42 ngày 7/9 tại VN], Rusk
chỉ thị Lodge mở lại liên lạc với ông Diệm, yêu cầu giải quyết ngay các vấn đề
khẩn thiết như bãi bỏ Thiết quân luật, phóng thích Phật tử và học sinh, sinh
viên, bỏ kiểm duyệt báo chí, giải tỏa các chùa chiền, v.. v... Thời gian là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Rusk cũng yêu cầu Lodge nên cố tránh một cuộc đương đầu hay giao tối hậu thư,
mà phải giải thích cho ông Diệm biết nước Mỹ đang hoạch định chính sách mới,
trong khi chịu nhiều áp lực của báo chí, dư luận và Quốc Hội. (FRUS,
1961-1963, IV:128-9) Tuy nhiên, Lodge chưa gặp ngay ông Diệm mà có ý chờ
ông Nhu thực hiện những gì đã hứa.
Hôm sau, 7/9, do áp lực của Khâm sứ
d’Asta và Cabot-Lodge, Tổng Giám Mục Thục lên đường qua Roma cùng Giám mục
Picquet. Có lẽ chẳng vui vẻ gì, ông Thục tuyên bố ở Roma rằng CIA Mỹ đang bỏ ra
20 triệu Mỹ Kim để âm mưu đảo chính vào ngày 21/9 sắp tới. Thục còn khẳng định
các sư không tự thiêu mà bị giết bằng búa. Chẳng hiểu vì những lời tuyên bố
này, hay một lý do nào đó, Giáo Hoàng Paul VI hủy bỏ buổi triều kiến dự trù, mà
cũng chẳng đề cập gì đến việc thăng cấp Hồng Y. Vì mãi cuối tháng đó Công đồng
Vatican II mới tái nhóm, ngày 11/9, ông Thục bay qua New York để vận động cho
Lệ Xuân vào Mỹ “giải độc”—đòi hỏi “công lý,” như ông Diệm nói với Lodge; nhưng
dưới mắt Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy là một hành động biểu lộ “sự
điên rồ tập thể của một gia đình cai trị” [collective madness in a ruling
family] chưa hề thấy sau thời các Nga hoàng. (FRUS, 1961-1963,
IV:175) Hồng y Spellman không chịu tiếp, nên chính phủ Mỹ phải can thiệp cho
Spellman gặp mặt ông Thục.
Bà Lệ Xuân cũng rời Sài Gòn ngày 9/9
như ông Nhu đã hứa, để tham dự Đại hội nghị sĩ quốc tế Yugoslavia và
“giải độc.” Vì sứ mệnh nặng nề, Lệ Xuân mang theo một đoàn tùy tùng, kể cả con
gái là Lệ Thủy và một nữ bí thư. Nhưng ai nấy đều đoán biết tham vọng chính trị
của Lệ Xuân bắt đầu đi vào đoạn kết. Những lời nhục mạ Phật giáo cùng cuộc
tranh đấu bình quyền tôn giáo, xen kẽ với những lời đả kích cá nhân Kennedy
cùng viên chức Mỹ [“pinks”] của “Rồng Cái” trong những tuần lễ kế tiếp
chỉ mang lại sự bẽ bàng cá nhân và lòng khinh miệt, giận dữ với họ Ngô. Phật tử
trên thế giới và tình báo Mỹ cùng cha mẹ ruột Lệ Xuân sẽ dạy bảo “Rồng Cái” thế
nào là mặt trái của quyền lực—tức nỗi cay đắng, bẽ bàng của những con sô cẩu
[chó rơm] của Lão tử khi cuộc cúng tế đã qua.
[Thời gian này, Mỹ bỗng mất một lá bài
chính trị nuôi dưỡng bấy lâu. Tối Thứ Bảy, 7/9, Bộ trưởng Thuần gặp Rufus
Phillips (nhân viên cao cấp USOM), tiết lộ ông Nhu đang nắm hết quyền lực trong
nước. Thuần muốn từ chức, nhưng không dám vì sợ Nhu giết—ông Nhu nghi rằng
Thuần đã bị Mỹ mua.(FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 76) Hôm sau, khi
Trueheart đến thăm, Thuần lập lại những điều đã nói với Phillips và tỏ ý không
tin các Tướng dám hành động. [Theo
ông Thuần, Trần Thiện Khiêm trung thành với ông Diệm, nhưng có thể đang làm
việc với Phạm Ngọc Thảo]. Thuần
rất lo ngại cho tính mạng mình vì trên danh sách thủ tiêu của Trần Văn Khiêm có
tên Thuần. Trong tổ chức của Khiêm có cả Đại tá Phước, tỉnh trưởng Vĩnh-long.
Thuần đặc biệt quan tâm đến việc Đại sứ Italia, d' Orlandi, tuyên bố rằng Thuần
sẽ làm Thủ tướng. "Bộ ông ta muốn tôi bị giết sao," Thuần than thở. Theo Thuần, Nhu đang muốn tiêu diệt
Thuần, nói với ông Diệm rằng Thuần là nhân viên của Mỹ; bởi thế Diệm thay đổi
thái độ với Thuần. LLĐB đã tung truyền đơn nói Thuần và Bộ
trưởng Tư pháp Bùi Văn Lương lĩnh của Mỹ hàng trăm ngàn Mỹ kim. Thuần đã mang
truyền đơn này vào than phiền với Diệm. Nhu
cũng tung tin đang được Lodge yểm trợ, và sẽ trở thành cố vấn chính trị của
Lodge. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 75) Trueheart nghĩ rằng Thuần đã
bỏ hết mọi hy vọng, chỉ lo toan cho tính mạng sống và sự an toàn của gia đình.
Lá bài Nguyễn Đình Thuần cũng chấm dứt từ đó.]
Chính sách “áp lực và thuyết phục” của
Mỹ vẫn tiếp tục. Ngày 8/9,
David E. Bell, Giám đốc chương trình viện trợ Mỹ, tuyên bố trong một buổi trực
tiếp truyền hình rằng Quốc Hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Diệm không thay đổi chính
sách. Trong khi đó Thượng Nghị sĩ Frank Church và một số người khác chuẩn bị
nạp các dự thảo luật đòi cắt viện trợ cho Việt Nam.
b. áp lực Nhu rời
nước:
Ngày 9/9, sau khi Lệ Xuân ra đi, Lodge
mới gặp ông Diệm lần thứ hai sau ngày nhậm chức. Hai người thảo luận nhiều vấn
đề, đặc biệt là Lệ Xuân và Thục. (Lệ Xuân từng đe dọa sẽ đưa vấn đề ra trước
LHQ, và Nhu muốn yêu cầu Quốc Hội Mỹ điều tra chính sách của Kennedy. Thục thì
tuyên bố Mỹ đã trả 20 triệu MK để lật đổ chế độ Diệm). Khi Lodge nói cần thay
đổi nhân sự, như Nhu phải đi xa, ít nhất đến cuối năm 1963, ông Diệm hỏi ngược
lại tại sao Nhu phải đi khi cần người trông coi ấp chiến lược.
Về vấn đề Phật giáo và những người bị
bắt giữ, ông Diệm nói hiện chỉ còn giữ 70 tù nhân tham dự biểu tình. Ông Diệm
cũng nói đại diện Việt Nam
tại LHQ sẽ chứng minh nhiều ngôi chùa đã biến thành "nhà chứa"
[bordellos], cảnh sát tìm thấy quần áo lót đàn bà, hình ảnh khiêu dâm, một nhà
sư đã phá trinh tới 13 thiếu nữ. Chính phủ chỉ tảo thanh vài ba chục chùa trên
tổng số 4,700 chùa. Tại chùa Xá Lợi, những thành phần khiêu khích đã ném đồ vật
lên đầu khách đi đường, nên phải có thái độ. Học sinh, sinh viên bãi khoá vì
chúng là Cộng sản. Khi Lodge đọc cho ông Diệm một bản tin của Reuters, dẫn lời tuyên bố của
Tổng Giám Mục Thục rằng các
tăng sĩ không tự tử mà họ đã bị giết bằng búa, ông Diệm chỉ im lặng. Trong
báo cáo về Oat-shinh-tân, Lodge nhận xét ông Diệm nặng mang tinh thần Trung
cổ.(FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 77)
[Ngày Thứ Năm, 5/9, khi trả
lời thư ngày 31/8/1963 của Tổng thư ký LHQ U Thant, ông Diệm cho rằng không hề
có việc đàn áp Phật giáo tại Việt Nam. Những cáo buộc trên thuần là “sản
phẩm tưởng tượng của thực dân.” Các nước Phi và á châu đã bị “đầu độc bởi
âm mưu quốc tế của phương Đông
hoặc phương Tây chống lại VNCH.” Diệm cũng khẳng định đã tìm ra một giải pháp
cho vấn đề Phật giáo. (American Foreign Policy: Current Documents,
1963, pp. 869-70; FRUS,
1961-1963, IV:112)
Ngày này, phái đoàn Krulak và
Mendenhall vừa hoàn tất chuyến tham quan (khoảng 24 giờ) Việt Nam. Họ được
Lodge trình bày tóm lược buổi đối thoại với ông Diệm, và ý định muốn bắt ông
Nhu rời nước càng sớm càng tốt.
Trong phiên họp ngày 10/9 tại Bạch
Cung, hai bản báo cáo của Krulak và Mendenhall khiến Kennedy và các cố vấn nhức
đầu. Hai báo cáo này khác nhau như ngày với đêm, bộc lộ rõ đường ranh phân chia
trong giới cố vấn thân cận của Kennedy. Tướng Krulak cho rằng cuộc chiến vẫn
tiến triển tốt đẹp, và cuộc khủng hoảng chính trị hiện tại không ảnh hưởng gì
đến quân nhân hay vùng nông thôn. Mendenhall kết luận rằng không thể thắng với
anh em ông Diệm-Nhu, và người Việt bắt đầu thiếu lòng tin cả chính phủ Mỹ.Nhiều
người tại Huế và Sài-gòn nói Cộng Sản còn [tốt] hơn cả chế độ Diệm. Nhiều người
Việt không dám nói chuyện với Mỹ kiều, lo sợ bị bắt giam. Tại sáu tỉnh miền
Trung Mendenhall đi qua,
các sĩ quan cao cấp yểm trợ ông Diệm, nhưng sĩ quan cấp dưới bất mãn. Các cấp
tỉnh trưởng, quận trưởng còn trung thành, nhưng mọi công chức cấp dưới chống
đối. Tình hình quân sự có vẻ suy thoái trong tháng 8/1963. (FRUS, 1961-1963,
IV:144-5)
Kennedy phải chua chát hỏi Krulak và
Mendenhall rằng thực chăng hai người cùng thăm một xứ. Sau khi nghe thêm thuyết
trình của Rufus C. Phillips và John Mecklin mới từ Sài Gòn về, Kennedy tạm thời
chưa có quyết định rõ ràng về ông Diệm, dù số phận ông Nhu đã được định đoạt.
[Mecklin đề nghị nếu muốn
làm đảo chính, cần chuẩn bị trước để đưa quân chiến đấu vào miền Nam, vì các
chính phủ kế tiếp có thể suy yếu hơn Diệm. Phillips không đồng ý, vì sức mạnh
của Nhu đã được phóng đại quá mức, trong khi đánh giá thấp những người chống
đối. Nhu khiến người ta sợ và trọng, nhưng không trung thành. Hơn nữa, dùng lời không
đủ thuyết phục họ Ngô. Không cần phải cắt hẳn viện trợ mà cắt những chương
trình nào đó có hậu quả tâm lý nhắm vào Tung và Nhu. Phải sẵn sàng đương đầu
những khó khăn do Nhu gây ra, và trút trách nhiệm sự thoái hóa trong cuộc chiến
chống Cộng, nếu xảy ra, lên đầu Nhu. Không nên nghi ngờ các Tướng. Các Tướng
chưa làm đảo chính vì họ không có lính trong tay, chưa có kế hoạch và chưa tin
tưởng ở sự yểm trợ của Mỹ. Có thể dùng quân Mỹ trong trường hợp khẩn cấp như
bảo vệ thân nhân Mỹ, nhưng dùng quân Mỹ để đánh VC là một lầm lẫn nghiêm trọng;
IV:249-51]
Ngày 11/9/1963, ông Nhu lại thả thêm
một quả bom khiêu khích Cabot-Lodge: Times
of Vietnamloan tin bọn phiêu lưu quốc tế sắp chuẩn bị vòng thứ 2. Trong khi đó, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn
Bình của giáo phận Sài Gòn ra thư luân lưu nói về thông điệp ngày 26/8/1963 của
Paul VI (Paulius P.P. VI): Người giáo dân lương thiện phải trung thành với
chế độ đang cầm quyền, bất kể sự chính thống của chế độ.(CLV 46:292-7)
Chẳng hiểu có bị ảnh hưởng bởi hai biến cố trên hay không,
lúc 14G00 ngày 11/9, Lodge gửi công điện yêu cầu có biện pháp mạnh với chính
phủ Diệm. Đã đến lúc phải dùng biện pháp trừng phạt [effective sanctions]
hữu hiệu để lật đổ Diệm và thành lập chính phủ mới; và yêu cầu nghiên cứu gấp
việc ngưng viện trợ, di tản thân nhân viên chức Mỹ để tránh rắc rối.
Là một cựu chiến binh Thế chiến thứ
hai, Lodge cho rằng các sĩ quan trẻ không báo cáo hết sự thực về ảnh hưởng của
biến cố Phật giáo đối với quân đội—họ không muốn làm thượng cấp phật ý. Đa số
sĩ quan trẻ đều xuất thân từ thành phố, nói chung là có học, không thể dửng
dưng nhìn hay nồng nhiệt ủng hộ chính phủ bắt giữ cha, chú, anh chị em họ. Ngay
các binh sĩ cũng vậy. Mức độ đàn áp học sinh, sinh viên rất thô bạo. Có thể vài
ba cán bộ Cộng Sản đã xâm nhập, nhưng sinh viên, học sinh không phải là Cộng Sản. Tin đồn mới
nhất là các công chức cũng sắp xuống đường. Và chắc chắn các đoàn biểu tình sẽ
chúi mũi dùi vào Mỹ nếu Mỹ không có thái độ. Con thuyền quốc gia miền Nam đang
chìm đắm, và để cứu vãn tình thế, bất cứ biện pháp trừng phạt nào có thể sử
dụng phải được thực thi, như tạm ngưng viện trợ. Nếu muốn loại bỏ [get rid
of] Nhu, nên lấy việc ngưng viện trợ để đạt mục tiêu này. Lodge cũng đề
nghị phải lôi cuốn [induce] những người muốn cầm quyền, như Big Minh;
và chấm dứt ngay tình trạng “chờ đợi” vì thành phần ưu tú trong xã hội sẽ hết ý
chí nếu chưa bị chế độ thủ tiêu. (FRUS, 1961-1963, IV:171-4)
Ngay chiều 11/9 [rạng sáng 12/9 tại
Việt Nam]
Kennedy triệu tập một phiên họp tại Bạch Cung để thảo luận về công điện của
Lodge. Đa số ủng hộ việc cô lập Nhu. Tuy nhiên, Kennedy chưa có quyết định rõ
ràng về việc thay đổi chính phủ cùng những biện pháp răn đe như ngưng viện trợ,
di tản Mỹ kiều. Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Lodge biết quyết định trên, nhưng giải
thích thêm rằng đang chuẩn bị kế hoạch di tản thân nhân viên chức Mỹ, cô lập
Nhu dần dần kể cả việc cung cấp viện trợ trực tiếp cho các địa phương và đơn
vị.
Rusk còn chỉ thị Lodge gặp Diệm trình
bày về thái độ của Quốc Hội Mỹ và nhất là những lời phát biểu của Lệ Xuân. Tại Belgrade, Lệ Xuân tuyên bố rằng
Kennedy là một chính khách, nên thường hòa phục dư luận. Theo Lệ Xuân, nếu những dư luận đó
không đúng, giải pháp đứng đắn nhất không phải là đầu hàng mà phải nói lên sự
thực. Lời tuyên bố này khiến Kennedy muốn tìm cách bắt Lệ Xuân im lặng.(IV:
195-6) Hôm sau, 13/9, Lodge đề nghị chẳng cần gặp Diệm thường xuyên khi không
có đề nghị mới. Đồng thời xin nghiên cứu phản ứng trong trường hợp Ngô Đình Nhu
yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam như Lalouette và Thompson đã tiết
lộ.(IV:205-6) Ngày 14/9, Lodge vẫn chưa muốn gặp Diệm về Lệ Xuân vì, theo
Lodge, khi gặp nhau ngày 9/9, Diệm nói Lệ Xuân sẽ họp báo ở New York để đòi
công lý, và có vẻ ủng hộ Lệ Xuân.
Ngày 12/9, Lodge cũng viết thư riêng cho Rusk,
yêu cầu chuyển thẳng cho Kennedy, xin Lansdale thay Richardson. Theo Lodge, người Việt vẫn nghĩ
rằng Richardson thân thiết với Nhu, dù thực tế Richardson là một viên
chức Mỹ xuất sắc, tận tụy. (IV:205) Nhưng
ngày 24/9, Lodge cho Rusk biết McCone không đồng ý.
Ngày 12/9, McCone cũng đưa ra một kế
hoạch, theo đó tiếp tục yểm trợ Phó TT Thơ để đạt một thỏa ước với Phật giáo,
bãi bỏ thiết quân luật, cách chức Ngô Trọng Hiếu, thay Nhu bằng một ủy ban tư
vấn gồm những người như Trần Quốc Bửu, Trương Vĩnh Lễ, Trần Ngọc Liễn. Đặt LLĐB dưới sự chỉ huy của Bộ TTM.
Trong khi đó, ngày 12/9, Harkins báo
cáo Cộng Sản đã xâm nhập vào phong trào tranh đấu Phật Giáo. Và bây giờ, tới
sinh viên. Harkins cũng tin rằng đang thắng trận. (IV:194-5) Ngay chiều đó
[6G00 ngày 13/9 VN], HĐ/ANQG thảo luận về công điện của Harkins. McCone khẳng
định cơ quan CIA không có tin tức nào về việc này. (IV:199) McNamara muốn
Harkins báo cáo chi tiết rõ ràng hơn. (Ibid) Harriman, Thứ trưởng
Ngoại giao đặc trách chính trị vụ, cũng viết thư cho Lodge, yêu cầu phê bình về
công điện của Harkins. (IV:209)
Ngày Thứ Bảy, 14/9, Oat-shinh-tân chỉ
thị cho Lodge tạm thời đình hoãn tiền viện trợ kinh tế $18.6 triệu MK cho Nam
Việt Nam.
Ngày 16/9, Lodge biện minh
về việc dùng áp lực viện trợ như sau: Mỗi ngày người Mỹ chi tiêu 1.5 triệu Mỹ
kim ở Việt Nam.
Lodge muốn rằng viện trợ đó không tự động được giao cho Việt Nam, bất kể thái độ của Việt Nam đối với
Lodge, người đại diện Tổng thống Mỹ tại địa phương. Lodge muốn anh em ông Diệm
phải hiểu rằng mỗi lần gặp Lodge, anh em họ Ngô phải mang mặc cảm xin ân huệ
của Lodge. Với ông Diệm, thuyết phục vô giá trị, vì đưa ra ý kiến gì, ông Diệm
lập tức bị ông Nhu tẩy não. (IV:215-6)
Ngày 15/9, Rusk cho lệnh Lodge phải
tạm ngưng đảo chính trước khi Oat-shinh-tân có quyết định rõ ràng. (IV:212)
Cơ quan CIA cũng trình lên
Kennedy một báo cáo về “Vấn đề Nhu” [Problem of Nhu]. Theo trưởng
phòng sưu tầm và nghiên cứu CIA, Nhu giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi
cuộc chiến chống Cộng; nhưng từ ngày 8/5, Nhu khiến cuộc tranh đấu của Phật
giáo bùng nổ lớn, và có khả năng tạo nên một cuộc khủng hoảng chính phủ. Nhu là
vật cản trở bất cứ giải pháp nào vì Nhu có ảnh hưởng lớn trên ông Diệm, Nhu nắm
Mật vụ và Lực lượng Đặc biệt, Nhu chống Mỹ, liên hệ với Cộng Sản Bắc Việt, và
dân chúng muốn Nhu phải ra đi. Ngay các Tướng Harkins và Krulak cũng muốn thấy
Nhu ra đi. Theo Krulak nhiều sĩ quan cao cấp sẽ ngả theo Hà Nội nếu Nhu lên cầm
quyền.
Nhu đã loại bỏ dần những nhân vật ảnh
hưởng quanh Diệm, như Nguyễn Đình Thuần, Võ Văn Hải, v. v.. Vì thế Diệm tin
rằng cuộc tranh đấu của Phật giáo do VC xen vào. Điều này khiến Diệm bị mất giá
trị dưới mắt những người như Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, Tướng Lê Văn Kim, v..
v...
Nhu có tinh thần chống Mỹ,
cáo buộc Mỹ là thực dân, phong kiến, đang muốn biến Nam Việt Nam thành chư
hầu. Nhu tung tin một số viên chức Mỹ nằm trên danh sách sẽ bị thủ tiêu. Nhu
nói rằng Mỹ phải giảm áp lực vì đang đe dọa nền độc lập của Nam VN. Nhu liên
tục nói dối với Lodge và chánh sở CIA Sài-gòn về vai trò của mình trong cuộc
tấn công chùa chiền.
Nhu thường nói nếu Mỹ cắt
viện trợ sẽ có nguồn viện trợ khác. Nếu không có viện trợ, Nhu sẽ tìm cách
thương thuyết với Hà-nội. Tin Nhu bắt đầu thương thuyết với Hà-nội lan truyền
rộng rãi, khiến tinh thần binh sĩ hoang mang. Nhu tin rằng chỉ có Nhu mới cứu
được Việt Nam.
Cả Thuần và Hải đều nói Nhu nghiện thuốc phiện từ hai năm qua.
Tướng Harkins tin rằng nếu
Nhu ra đi, tình hình Việt Nam
sẽ sáng sủa hơn. Tướng Krulak tường thuật rằng các sĩ quan sẽ hân hoan thấy Nhu
ra đi. Liên đoàn trưởng Nhảy Dù [Cao Văn Viên] rất muốn thấy Nhu ra đi. Đại tá
Hoàng Văn Lạc nói Nhu không thể tồn tại quá 24 giờ nếu Mỹ tuyên bố ngưng yểm
trợ. Trần Quốc Bửu cũng nghĩ rằng Nhu phải ra đi. Theo Võ Văn Hải, Diệm khó thể phục hồi được lòng tin
của dân chúng nếu Nhu còn ở trong nước.
Trưởng Sở Sưu Tầm đồng ý với Tòa Đại
sứ Sài-gòn rằng Nhu không được ưa thích, bị ghét bỏ, sợ hãi và không được tin
cậy trong mọi giai tầng công chức, quân đội, trí thức thành phố. Sự thù ghét
Nhu bấy lâu ngày một gia tăng khiến người ta chỉ trích chế độ đàn áp. Hughes
cũng đồng ý với MACV rằng Nhu có thể thương thuyết với Hà-nội và đại đa số quân
đội không chấp nhận Nhu. (FRUS, 1961-1963, IV:212-5)
Trong khi đó, phe đảo chính cũng bắt
đầu nối lại liên lạc. Ngày Thứ Hai, 16/9, Trần Thiện Khiêm mời một nhân viên
CIA tới gặp, tuyên bố vẫn tiếp tục dự định đảo chính. Theo Khiêm, các Tướng
nóng lòng hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc Nhu móc nối Cộng Sản. Tuần
lễ thứ hai của tháng 9, các Tướng đòi Diệm nhường cho 4 ghế Bộ trưởng Quốc
Phòng, Nội Vụ, Chiến tranh Chính trị, và Giáo dục. Các Tướng đề nghị Big Minh,
André Đôn hay Raymond Khánh làm Bộ trưởng Quốc Phòng (hy vọng là André Đôn sẽ
được nhận), Tôn Thất Đính nắm Bộ Nội vụ (để Diệm dễ chấp nhận), Trần Tử Oai hay
Lê Văn Kim nắm Bộ Chiến tranh Tâm lý, và Trần Văn Minh (nhỏ) hay Phạm Xuân
Chiểu nắm bộ Giáo Dục. Ông Diệm
tuyên bố sẽ cứu xét, nhưng chưa quyết định, chờ tới sau ngày bầu cử Quốc Hội
[27/9/1963]. Khiêm còn tiết lộ
Nhu nói với một số Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về những cuộc tiếp xúc
với Maneli. Theo Nhu, Maneli đã mang tới đề nghị của Phạm Văn Đồng về việc hiệp
thương giữa Bắc và Nam; và Nhu đang nghiên cứu đề nghị trên, sẽ thông báo cho
các Tướng biết thêm những bước kế tiếp. Nhu còn nói Lalouette từng đề nghị
tương tự.
Ba Tướng chủ mưu đảo chính là Minh,
Khiêm và Khánh. Các Tướng Kim, Chiểu và những người khác chỉ được tham khảo,
nhưng không thiết lập kế hoạch. Cho tới hiện tại, kế hoạch của họ chưa bị lộ.
Phần Tôn Thất Đính đã được Nhu chỉ thị chĩa súng vào Conein để dọa Conein. Đính
tuyên bố đã được Mỹ cho 20 triệu đồng để làm đảo chính, nhưng Đính từ chối, và
báo cáo với Nhu. [Hồi ký Tướng Đính không nói đến việc này] Khiêm cũng khẳng
định các Tướng không theo Nhu nếu Nhu ngả theo Bắc Việt hay muốn trung lập. ( FRUS, 1961-1963, IV:239-40)
Hai ngày sau, Thứ Tư 18/9, một sĩ quan
Mỹ đến gặp Tướng Minh tại trại Lê
Văn Duyệt. Ông Minh tuyên bố VC tiếp tục đoạt tiên cơ, kiểm soát nhiều dân
chúng hơn chính phủ. 80 phần trăm
dân chúng không hiểu nên theo chính phủ hay VC. Diệm-Nhu tiếp tục bắt giữ đối
lập, học sinh, Phật tử, các nhà giam chật ních. Hai doanh trại trong căn cứ Lê Văn Duyệt đầy tù nhân. Học sinh, sinh viên đang
ngả theo VC. Tham nhũng, hối mại quyền thế tràn lan. Hầu hết tỉnh trưởng và
quận trưởng là đảng viên Cần
Lao, họ bắt dân phải hối lộ khi nhận được viện trợ Mỹ. Tiền này chuyển vào
quĩ đảng Cần Lao. Tổng
Giám Mục Thục nhúng tay vào “bất cứ việc gì ngoại trừ việc đạo.” Trái tim của
binh sĩ không dồn vào chiến tranh, Tướng Minh nhấn mạnh. Các sĩ quan trung cấp
đều trông đợi đảo chính. (FRUS,
1961-1963, IV:272-3; VNNB,I-C:
1955-1963, tr. 353-5).
Được hỏi ý kiến về nhận xét của Tướng
Minh, Harkins không đồng ý. Theo Harkins, Big Minh đã bị nghi ngờ từ năm 1960,
và không được nắm binh quyền. Minh không làm gì cho nỗ lực chiến tranh mà chỉ
than phiền, và tìm cách đảo chính. Những lời nhận xét của Minh khó thể kiểm
chứng. (FRUS, 1961-1963, IV:274-5, tài liệu 139)
Như để chứng tỏ thiện chí,
ngày Thứ Hai, 16/9, Diệm hủy bỏ lệnh thiết quân luật.
Trong khi đó, tại Oat-shinh-tân, ngày
Thứ Ba, 17/9, HĐ/ANQG Mỹ quyết áp lực Diệm phải tuân theo chính sách của Mỹ.
(Phillips chống lại việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam để thực hiện đảo chính). Kennedy chỉ thị cho Lodge là đã chấp
thuận một kế hoạch tổng quát để thực hiện những cải cách về nhân sự và chính
sách tại Nam Việt Nam, nhưng chưa thấy cơ hội tốt để loại bỏ chính quyền hiện
tại. Dẫu vậy, Kennedy đồng ý cho Lodge quyền được tạm ngưng giao viện trợ để
tăng cường áp lực khi thương thuyết, miễn hồ không cắt hoàn toàn viện trợ. Đồng
thời, Oat-shinh-tân tham khảo Lodge về 13 điểm cần làm ngay, như tạo tinh thần
hòa giải, phóng thích Phật tử và sinh viên học sinh, kiểm duyệt báo chí, việc
sử dụng Lực lượng Đặc Biệt. Ngoài
ra, tìm cách đưa vợ chồng Nhu khỏi nước, thí dụ như đi nghỉ dài hạn khoảng 6
tháng. Kennedy còn thông báo sẽ gửi McNamara và Taylor
qua Việt Nam
để thị sát tình hình. Kennedy
nhấn mạnh rằng cần ý kiến của Lodge trước khi những sách lược trên được thực
thi. (CAP 63516 ngày 17/9; FRUS,
1961-1963, IV:252-4) Lodge phản đối việc cử phái đoàn McNamara và Taylor, sợ rằng dư luận
nghĩ Mỹ tiếp tục yểm trợ Diệm. (Ibid., IV:255) Nhưng thực ra, có lẽ vì
McNamara và Taylor
là hai người chống lại kế hoạch thay anh em ông Diệm-Nhu mà nhóm Harriman và
Forrestal cùng Bộ Ngoại Giao chủ trương. (Ibid., IV:251, 256) Hôm sau,
18/9, Rusk cho Lodge biết chuyến đi của McNamara cần thiết để các chuyên viên
quân sự nhận định tình hình tại chỗ. (Ibid., IV:Tài liệu 128)
Tối 18/9, ông Nhu dàn xếp mời vợ chồng
Cabot-Lodge dự dạ tiệc, cùng Goburdhun (đại diện India trong UBKSQT), và XLTV Ngoại
trưởng Cừu. Ông Nhu lập lại nhiều
lần rằng các Phật tử đã bị giết mà không phải tự tử. Ngoại trưởng Cừu cùng một luận điệu.
Khi ông Nhu đề cập đến vấn đề dự thảo Nghị quyết của TNS Church,
Lodge nói đã có thêm 4 Nghị sĩ bảo trợ dự thảo này. Nhu vừa nói nói sẽ có hành
động “vì sĩ diện của Kennedy,” thì bị Lodge ngắt lời, nói vấn đề không phải là
sĩ diện của Kennedy mà là khả năng chung của Mỹ và VNCH để thực thi chính sách
chống Cộng. Từ tháng 5/1963, điều gây nguy hiểm cho chính sách chống Cộng ấy là
dư luận xấu, khiến tạo nên những mối nghi ngờ như thực chăng chính sách ấy xứng
đáng để yểm trợ. Rồi Lodge đề nghị Nhu nên rời nước một thời gian, ít nữa cho
tới tháng 12, sau khi việc chuẩn chi [cho tài khóa] đã hoàn tất. Ông Nhu cố biện bạch rằng nếu ra đi,
không ai trông coiThanh Niên Cộng Hòa, một lực lượng cần thiết cho
chiến thắng. Khi chia tay, Lodge lập lại nhiều lần là muốn Nhu trả lời càng sớm
càng tốt. Theo Lodge, Nhu là “một tâm hồn lạc lõng, một con người bị ma ám, kẹt
giữa cái vòng quái ác. Những Cơn Giận Dữ đang săn đuổi ông ta.” (Ibid.,
IV, Tài liệu 129)
Trưa hôm sau, 19/9, Times of Vietnam lại tố cáo những kẻ muốn giao số mệnh
Việt Nam
vào bàn tay CIA. Theo báo này, những thành phần chủ trương đảo chính gồm nhân
viên USIS (Sở Thông tin Mỹ), đài Tiếng
Nói Hoa Kỳ (VOA),
viên chức trẻ trong Tòa Đại sứ Mỹ và cơ quan USOM (Kinh tế). Tuy nhiên phe quân
sự chống lại. Các nhóm thân đảo chính muốn sử dụng VNQDĐ và Đại Việt của Nguyễn Tôn Hoàn. Trong khi đó, Ủy
ban Tương trợ Phật giáo tìm cách móc nối với các giáo dân Ki-tô ở Huế. Những
cuộc vận động này do Thích Trí Quang, đang tị nạn tại tòa Đại sứ Mỹ và có liên
hệ với Cộng Sản, cùng sự yểm trợ của những tên "phiêu lưu ngoại quốc." Không khí thủ đô VNCH trong ngày 19/9
cực kỳ nghiêm trọng. Có tin đồn
Nhu ra đi, Tướng Đính bị thất sủng, và sẽ có đảo chính.
Ngày 19/9 này, Đại sứ Italia d’
Orlandi mật báo rằng Thuần tuyên bố chiến trường ngày một bất lợi và Thuần muốn
rời nước. Báo cáo tin trên về Oat-shinh-tân, Lodge nhận xét: Tình hình ngày
thêm tồi tệ ở Sài Gòn. Bây giờ chúng ta có cả chứng từ của Bộ trưởng Quốc phòng
và vị Tướng số 1—không phải là sản phẩm của xưởng sản xuất tin đồn.” (FRUS,
1961-1963, IV:261n5) Lodge còn báo cáo trực tiếp lên Kennedy rằng anh em
ông Diệm-Nhu đang băn khoăn dò đoán thái độ Mỹ, nên Lodge tiếp tục giữ thái độ
xa cách, lạnh nhạt, đồng thời nghiên cứu những biện pháp “răn đe” [sanctions],
nhưng chỉ sử dụng khi đã chắc chắn có kế hoạch đảo chính. Đại cương có thể tạm
ngưng viện trợ về kỹ thuật và giao thông. Mục đích chính là tập cho viên chức
Việt thói quen phải xin Lodge viện trợ, nhờ thế có thể thực hiện được những
việc nhỏ. [Ngày 25/9, Ball đề nghị tạm ngưng chương trình PL 480. (Ibid.,
IV:290-1)]
Về dự thảo ngày 17/9 của Kennedy, theo
Lodge, Diệm không muốn chứng tỏ tinh thần hòa hoãn. Diệm muốn khủng bố [terrorize]
Phật tử và sinh viên, học sinh. Chắc chắn Diệm không chịu trả LLĐB về Bộ Tổng Tham Mưu, vì như vậy khác
nào tự trói hai tay. Về thay đổi chính phủ, thực ra dân chúng chỉ oán ghét họ
Ngô. Bộ trưởng thì chỉ có Trương Công Cừu là “gia nô” [the most shameless
sycophant I have ever seen]. Lodge cũng nhắc đến nhận xét của Tướng Minh
ngày 18/9, và đề nghị xin được tiếp tục thúc dục Dương Văn Minh nếu Minh muốn
đảo chính. (Ibid., IV: Tài liệu 130, 131)
c. Phái đoàn
McNamara-Taylor:
Ngày 17/9, Kennedy quyết định gửi Bộ
trưởng Quốc Phòng McNamara cùng Tướng Taylor, Cố
vấn quân sự, qua thăm Việt Nam
để tường trình thêm. Bốn ngày sau, Kennedy gặp riêng McNamara để thảo luận, rồi
ngày 23/9, Kennedy chính thức ký chỉ thị chi tiết những điểm cần tìm hiểu.
Kennedy còn thêm rằng phái đoàn phải gặp Diệm hai lần; đòi hỏi cải tổ; nhưng
đừng đe dọa cắt viện trợ vì sẽ không hữu hiệu. (Ibid., IV:280-2) Ngày
này, McNamara và Taylor
lên đường ngay.
McNamara, tưởng nên lập lại, không
muốn thay đổi chế độ Diệm. Taylor
cĩng vậy. Nhưng chuyến viếng thăm Nam Việt Nam vào hạ tuần tháng 9, đầu tháng
10/1963 của McNamara và Tướng Taylor đóng chặt hơn những chiếc đinh trên nắp
quan tài Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngày 25/9/1963, như để chào đón phái
đoàn McNamara-Taylor báo Times
of Vietnam đả kích lời phát biểu đòi cắt giảm
viện trợ của Nghị sĩ Church và một số dân biểu khác. Theo báo này khoản tiền viện trợ cần
cắt là 1,440,000 Mỹ Kim chi dụng cho các nhân viên CIA và 360,000 phụ chi khác
để chuẩn bị đảo chính. (CLV, SV, d. 14)
Chưa có tài liệu nào chứng tỏ McNamara
có được đọc bài báo trên hay không, và phản ứng ra sao.
Một trong những người đầu
tiên McNamara gặp ở Sài Gòn là học giả “Smith” [P. J. Honey]. Giáo sư Honey nói tiếng Việt thành
thạo, từng qua Việt Nam năm 1953 và 1960, lúc ấy là giảng viên Trường Nghiên
cứu Đông Phương và Phi Châu ở London. Theo Honey, khi tới Việt Nam vài tuần
trước, ông ta nghĩ rằng người Mỹ có thể tìm cách làm việc chung với anh em ông
Diệm. Nhưng Honey đã lầm. Vài năm qua, ông Diệm đã già nua và chậm chạp quá
mức. Lời chỉ trích chế độ trở thành công khai, từ giới quân đội tới dân sự.
Việc ông Diệm đánh phá Phật Giáo làm cho dân chúng sửng sốt. Tất cả những yếu
tố trên khiến Honey nghĩ rằng không còn cách nào khiến chế độ cởi mở hay thay
đổi quan điểm của ông Diệm. Đã đến lúc nước Mỹ phải quyết định liệu có thể
thắng được với chế độ Diệm hay chăng; riêng Honey cảm thấy câu trả lời là
không.(Ibid., IV:293-5; In
Retrospect, tr. 74) Theo William P. Bundy, người theo McNamara qua Việt Nam, lời chứng
của Honey ảnh hưởng lớn trên McNamara. (Ibid., IV:293n2)
Tại Sài Gòn, ngày Thứ Sáu, 27/9, Richardson nói với
McNamara rằng khủng hoảng
Phật giáo kết tinh những bất bình ngủ yên bấy lâu. Việc bắt giữ tập thể học
sinh, sinh viên (kể cả con em công chức, quân nhân) là điều xấu. Việc lùng bắt
trong đêm khiến dân chúng ghét chế độ hơn. Nguyễn Đình Thuần đã hai lần từ chối
chức Tổng thư ký Hội đồng chính phủ; dù Diệm nói trên thực tế Thuần sẽ hành xử
như Thủ tướng. Vì vậy Thuần đang bị canh chừng—gia đình họ Ngô coi Thuần như
người của Mỹ. Thuần thấy không ai có đạo đức giống Diệm, nhưng nếu họ Ngô tiếp
tục cầm quyền sẽ dẫn đến “đại họa” [disaster]. Muốn cứu đất nước cần
áp lực Diệm cải tổ, với điều kiện tiên quyết Nhu phải ra đi. Nhu khởi xướng
cuộc tấn đánh các chùa. Đừng đánh giá bằng quan sát phiến diện, dân chúng đang
tức giận. Hồ Tấn Quyền cũng không thể thuyết phục được chính cha mình về giá
trị của chính phủ. Dân chúng ghét Lệ Xuân và em Lệ Xuân (Khiêm). Nếu Nhu định
lên thay Diệm, chắc chắn sẽ có chiến tranh. Công An, Mật Vụ không những chỉ bắt
giữ mà còn bắt cóc dân chúng, ngày cũng như đêm, chẳng khác gì Kadar ở Hungary. Quản
nhiệm tờTự Do, tờ báo bị nghi thân Mỹ, cũng đã bị bắt. Các Bộ trưởng
đều ứ đến cổ, muốn từ chức, nhưng sợ hậu quả. Trong nhà cựu Ngoại trưởng Mẫu có
tới 36 nhân viên an ninh khi ông Mẫu sắp rời nước. Thuần có tên trong danh sách
bị ám sát của Khiêm—một tên điên và ẩn ức tình dục. Bộ trưởng Kinh tế, một tín
đồ Ki-tô cuồng tín, nói đêm qua mất ngủ vì những lời tuyên bố chống Mỹ của Nhu.
Chỉ có CS hưởng lợi. (FRUS, 1961-1963, IV:301-3)
Trong thời gian ở Việt Nam, McNamara
cũng được dịp chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội nhiệm kỳ thứ ba (1963-1967). Một
trong những ứng cử viên độc lập là Nguyễn Trân bị loại. Không một ứng cử viên
đối lập nào được tranh cử. Cũng may, mãi tới ngày 7/10 mới công bố kết quả,
bằng không McNamara sẽ thấy được rõ hơn nền “dân chủ” ở miền Nam: Trong số 123
người mới đắc cử, có 60 dân biểu đương nhiệm (25 người cũ thất cử). 96 người được
chính quyền ủng hộ đắc cử: 55 người thuộcPhong Trào Cách Mạng Quốc Gia (CMQG), 19 phụ nữ mà tất cả đều thuộc Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ (LĐPN). Phạm Văn Thùng và Trần Sanh
Bửu bị hai người Việt gốc Hoa đả bại. Đây là hai Dân biểu gốc Hoa đầu tiên. Theo
chính phủ Diệm, 92.82% cử tri đi bầu. (IV: Tài liệu 155) Hai vợ chồng ông Nhu
đều đắc cử trên 99 phần trăm dân số tại hai tỉnh mà Cộng Sản đã kiểm soát hầu
hết vùng nông thôn.
27/9: CIA báo cáo rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ
nữa [no longer
“rational.”](IV:298)
Buổi thảo luận với ông Diệm
tại Dinh Gia Long chiều ngày Chủ Nhật, 29/9, có lẽ là thùng nước đá lạnh đổ lên
thiện cảm của McNamara và Taylor
nói riêng, chính phủ Kennedy nói chung. McNamara cố xen vào những lời độc thoại
của ông Diệm về thành quả tốt đẹp của chế độ mình, nói thẳng rằng những biện
pháp đàn áp Phật tử gây trở ngại cho nỗ lực chiến tranh. McNamara cũng đề cập
đến những lời tuyên bố "vô trách nhiệm" của Lệ Xuân, như gọi quân
nhân Mỹ là những tên lính đánh thuê bé nhỏ [little soldiers of fortune].
Ông Diệm, dĩ nhiên, hết sức bào chữa cho Lệ Xuân, cũng như việc bắt giữ sinh
viên, học sinh và tấn công các chùa đêm 20 rạng 21/8. Lệ Xuân, theo ông Diệm,
đã bị đả kích tàn nhẫn mấy tháng qua và có quyền tự vệ, dù đôi khi quá đáng.
Sinh viên học sinh đã bị những tay gây rối xúi dục, sau khi bị bắt đã hối cải
đồng thanh ca tụng chế độ. Về việc đàn áp Phật giáo, McNamara “lạnh cóng” khi
nghe ông Diệm nói rằng “lỗi lầm” của ông trong vụ Phật giáo là “đã quá tử tế
[too kind] với Phật giáo.” (McNamara, In Retrospect, tr. 76) Ông Diệm còn khoe
đã giúp đỡ Phật giáo, số chùa tăng gấp đôi dưới chế độ Diệm. Rồi lập lại những
gì báo chí thân chính đã viết: các chùa chiền trở thành chốn hành lạc tập thể,
bất cứ ai cũng có thể trở thành tăng ni nếu cạo đầu và mặc áo màu vàng; một
trong ba nhà sư tị nạn tại USOM là cựu cảnh sát viên đã bị cách chức vì thiếu
khả năng, sống lang thang cho tới hai ba tháng trước rồi tự xưng là tăng và xin
tị nạn. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 158; Gravel, II:216). McNamara
hiểu rằng ông Diệm không chịu nhân nhượng điều gì, và hình như nghĩ rằng cứ
giải thích với người khác về những vấn đề tại Việt Nam là mọi chuyện được giải quyết.
(McNamara, In Retrospect,
tr. 75-7; FRUS, 1961-1963,
IV:321)
[Sau khi đổ vào miền Nam hơn
2 tỉ Mỹ kim suốt 9 năm dài để duy trì chế độ họ Ngô, các quan chức Mỹ đang đối
diện chứng nhức đầu quen thuộc của Toàn quyền Pierre Pasquier ba chục năm
trước: Anh em họ Ngô tìm mọi cách bảo vệ quyền lợi của gia đình mình bằng mọi
giá, bất kể thủ đoạn. (Xem Vũ Ngự Chiêu,Các vua cuối nhà Nguyễn, Tập III)].
McNamara và Taylor cũng tìm cách gặp nhóm Tướng Minh. Từ
ngày 26/9, Trần Thiện Khiêm đã gặp nhân viên CIA để duy trì đường dây liên lạc.
Theo Khiêm, cuộc tiếp xúc này do lệnh của “Big” Minh. Khiêm nói thêm
rằng cũng biết phe dân sự đang âm mưu đảo chính, và Diệm đã cử Trần Kim Tuyến
làm đại diện ở Cộng Hòa Ả Rập. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu
149.(IV:291-292)
Buổi tối ngày 29/9, Tướng
Taylor và McNamara “tình cờ” gặp Tướng Minh tại sân quần vợt tại Câu Lạc Bộ Sĩ
Quan, và muốn gợi chuyện vào lúc nghỉ giữa hiệp. Big Minh chỉ trao đổi những
câu xã giao, và hẹn gặp Taylor
bất cứ lúc nào tại văn phòng. (Swords and Plowshares, tr. 297-8) Tuy
nhiên, mãi tới ngày 1/10, Taylor
mới mượn cơ hội đến chào từ biệt để nghe Big Minh tâm sự rằng “quê hương đang
bị xiềng xích và chẳng có cách nào tháo ra.”(FRUS, 1961-1963,
IV:326-7)
Theo đúng lịch trình, McNamara và
Taylor gặp ông Diệm lần thứ hai trước buổi dạ tiệc tại Dinh Gia Long.(Swords
and Plowshares, tr. 298) Nhưng thái độ ông Diệm đã rõ: McNamara chẳng thể
khuyên bảo ông Diệm được điều gì.
Ngày Thứ Hai 30/9, McNamara
và Taylor gặp Phó Tổng Thống Thơ. Ông Thơ nhận
định rằng nỗ lực Mỹ ở Việt Nam
cần có 3 đặc tính: mau chóng, hữu hiệu, và thông minh. Mỹ mới có hai đặc tính
đầu, còn thiếu đặc tính thứ ba—chưa dùng sức mạnh một cách thông minh. Thể chế
cảnh sát trị ở miền Nam
tạo nên nhiều bất mãn. Tình trạng bất mãn không chỉ ở thành thị mà lan tràn ở
vùng thôn quê. Chỉ có từ 20 tới 30 ấp chiến lược được an toàn. Không thể thuyết
phục mà cũng không nên cắt viện trợ. Nếu đưa quân Mỹ vào VN để làm đảo chính
thì quá “khờ dại.” Vấn đề này có thể tìm hỏi Vũ Văn Mẫu. (FRUS, 1961-1963,
IV:321-3; Gravel, II:249) (ý kiến của ông Thơ, người được Mỹ trù tính đưa lên
thay ông Diệm nếu có đảo chính, rất có ảnh hưởng với McNamara. Nhưng McNamara
không nhắc gì đến cuộc gặp ông Thơ trong hồi ký Inretrospect, mà chỉ mượn tỉ
lệ ước lượng 50-50 chiến thắng Cộng Sản của
Honey khi bàn về việc giữ ông Diệm; tr. 78)
Ngày 30/9 này, McNamara còn gặp Khâm
sứ Vatican
d’ Asta, gốc Sicilian, người hiểu biết rõ về gia đình họ Ngô. Theo d’ Asta,
công an-mật vụ tra tấn nạn nhân. Hiện nay ông Diệm và Giáo hội xa cách nhau
dần. Giới trí thức nghĩ rằng ông Diệm vẫn còn chỗ dụng, nhưng gia đình Diệm
phải ra đi. Nhiều người nghiêng về phía trung lập hay ngả theo VC. Nếu ông Nhu nắm trọn quyền, việc đầu
tiên ông Nhu sẽ làm là yêu cầu Mỹ triệt thoái, rồi thương thuyết với Cộng Sản,
vì ông Nhu nghĩ rằng mình sẽ trở thành lãnh tụ của cả Việt Nam. D’ Asta đề nghị
phải thay ông Nhu ngay. Vẫn theo d’ Asta, không một giáo sĩ nào dám trái ý Tổng
Giám Mục Thục. Ông Thục đã khiến họ sợ hãi. Không thể
lý luận với Nhu, Lệ Xuân, hay Thục. Điều duy nhất phải làm là ép Nhu ra đi. Dân
chúng không hiểu thái độ người Mỹ ra sao. Chính phủ Mỹ không có một chính sách
rõ ràng nào. (FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 160; In Retrospect, tr. 74-5)
Cũng trong ngày Thứ Hai, 30/9, William
H. Sullivan, cố vấn Liên Hiệp Quốc của Bộ Ngoại Giao, báo cáo về những cuộc
tiếp xúc với XLTV Đại sứ Pháp,
Trưởng đoàn Canada trong UBQTKSẦC về vấn đề liên hệ Bắc-Nam. Họ nghĩ rằng việc
Ngô Đình Nhu móc nối với Hà Nội chỉ là tin đồn, tuy nhiên chẳng phải không thể
xảy ra. Miền Bắc đang gặp khó khăn kinh tế, muốn hiệp thương. Ngoài ra họ muốn
trục xuất Mỹ để giảm bớt ảnh hưởng và áp lực của Trung Cộng. Ông Nhu có hai lý do để bắt tay miền
Bắc: Nhu tin đủ khả năng đả bại VC, và muốn đuổi người Mỹ. Nhu đã thảo luận với
Đại sứ Lalouette vấn đề này, hy vọng sẽ thương thuyết vào cuối năm. Tuy nhiên,
ông Nhu lại tiết lộ với ký giả Joseph Alsop, bởi thế người Pháp không còn tin
Nhu nữa. (FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 161)
Ngày 1/10, như đã lược nhắc, Tướng
Taylor đến chào từ biệt Big Minh. Theo ông Minh, cuộc chiến gặp nhiều khó khăn. Ông Minh ngại rằng chiến thắng cuối
cùng chưa có dấu hiệu gì. Vấn đề Phật giáo, đây là cuộc tranh chấp giữa Phật
giáo và Ki-tô. Các viên chức tỉnh đã nhường cho Ki-tô giáo nhiều đặc ân. Những
cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh phản ảnh sự bất bình của cha mẹ. Có thể
Cộng Sản đã phần nào xúi dục, nhưng căn bản là sự bất công thấm nhập mọi giai
tầng xã hội. ìng Minh cảm thấy quê hương bị xiềng xích khó nỗi cựa quậy. Tướng
Taylor đề nghị ông Minh có thể liên lạc với mình qua Tướng Harkins bất cứ lúc
nào. (IV:326-7)
Ngày 2/10, McNamara và Taylor bay về Mỹ, và vắn tắt thuyết trình với Kennedy về
chuyến tham quan Việt Nam. Hai người đề nghị phải áp lực Diệm
thay đổi. Quân lực VNCH phải hoạt
động mạnh hơn ở vùng IV để củng cố các ấp chiến lược. Đồng thời, tuyên bố sẽ
rút 1,000 quân vào cuối năm. Về
chính trị, ép Diệm phải cải cách, và sẽ dùng cách ngưng viện trợ vài ba chương
trình làm áp lực. Không đồng ý đảo chính, nhưng đề nghị nên tìm một lãnh đạo
mới. (Gravel, II:216; US-Vietnam
Relations, 1945-1967,
Bk 12, tr. 554-73; FRUS,
1961-1963, IV:336-46 [tài liệu 167])
Chiều đó, HĐ/ANQG họp bàn về báo cáo
McNamara-Taylor. Kennedy chấp thuận tất cả đề nghị của McNamara và Taylor, nhất là việc
triệt thoái 1,000 quân vào cuối năm 1963. Tuy nhiên, thời hạn rút quân không
được công bố. Bạch Cung ra thông cáo về chuyến qua Việt Nam của McNamara và Taylor như sau: Tình hình quân sự có tiến
triển, có thế rút 1,000 quân. Tình hình chính trị nghiêm trọng. Mỹ tiếp tục
chống lại những hành động đàn áp tại miền Nam. Nhưng chính sách của Mỹ vẫn là
giúp dân chúng tại đây đả bại xâm lăng và xây dựng một xã hội hoà bình, tự do.
(Gravel, II:188; FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 167, 169, 170 (Record of Action No. 2472,
2/10/1963); In Retrospect,
tr. 79-80) [Sau này là NSAM 263 ngày 11/10/1963; US-Vietnam Relations, Bk 12,
tr. 578]
[Thứ Sáu, 4/10/1963, Đại sứ
Pháp tường trình về báo cáo McNamara-Taylor: Mỹ đang đối diện sự nguy hiểm là,
theo Sullivan, Ngô Đình Nhu sẽ
chờ cơ hội mà Mỹ sẽ đặt ở Nam Việt Nam một guồng máy quân sự đủ mạnh và ông ta
đủ quyền lực để đề nghị với Bắc Việt một cuộc ngưng bắn mà điều kiện sẽ là sự
triệt thoái quân Mỹ. (CĐ số 5614-18, 4/10/1963; CLV)]
Nguyên Vũ Vũ ngự Chiêu
Houston, 6/10/2001
http://www.hopluu.net/D_1-2_2-95_4-2265/