Nhân Chứng VNCH Đánh Tàu Tại Hoàng Sa 1959
Sunday, January 19, 2014
Saturday, January 18, 2014
VIỆT NAM MUÔN NĂM
Phản Đối Trung Quốc 40 Năm Xâm Lược Hoàng Sa (19/1/1974 - 19/1/2014)
- Biểu Tình Phản Đối Trung Quốc 40 Năm Xâm Lược Hoàng Sa (19/1/1974 - 19/1/2014)
Vụ Phạm Quý Ngọ và Cuộc chiến với “thế lực đen” khổng lồ
Quan nhất thời dân vạn đại
Đương thời tác quái tác oai
Xem dân là cỏ rác, lời xưa xem thử chẳng sai bao giờ!
Đương thời tác quái tác oai
Xem dân là cỏ rác, lời xưa xem thử chẳng sai bao giờ!
Lời giới thiệu: Nội dung dưới đây nằm trong một phản hồi trên một trang mạng, cho biết là của một số cán bộ chiến sĩ công an ở một đơn vị nghiệp vụ (xin không nêu tên cụ thể). Thấy nó quá đúng với tình hình, nhiều tình tiết rất khớp với những thông tin “ngoài luồng”, nên đưa lên coi như một tài liệu tham khảo và một cảnh báo cho nhiều phía cần tỉnh táo và cảnh giác. Những chi tiết trong đó xin được bàn luận sau.
Ban chuyên án đặc biệt
Một ban chuyên án đã được lập ra gồm những thành phần chọn lọc từ công an, viện kiểm sát, tòa án để điều tra về vụ ”tiết lộ bí mật” mà tử tù Dương Chí Dũng đã khai báo.
Như đã biết, tâm điểm của vụ án này là thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ. Ban chuyên án này trực tiếp do ban Nội Chính Trung Ương giám sát và chỉ đạo. Không phải trình bày với các cơ quan khác, ngoại trừ trường hợp cần thiết mà ban Nội Chính Trung Ương đồng ý. Hiện nay quá trình khởi tố vụ án đang được củng cố hồ sơ để tiến hành. Trong khi đó, để thực hiện biện pháp phòng ngừa. Nghi can số một là thượng tướng công an Phạm Quý Ngọ đã bị cô lập, vô hiệu hóa dưới danh nghĩa chữa bệnh. Phải nói đây là biện pháp nghiệp vụ cần thiết với các đối tượng đang ở dạng nghi can trong bất cứ vụ án nào.
Vô hiệu hóa Phạm Quý Ngọ
Từ khi Dương Chí Dũng khai tên Phạm Quý Ngọ tại tòa, báo chí phỏng vấn Phạm Quý Ngọ ngay tức thì. Nhưng cuộc trả lời phỏng vấn đó là hoạt động cuối cùng của Phạm Quý Ngọ đến nay. Phạm Quý Ngọ là một nhân tố nằm trong thế lực đen ở Bộ Công An. Thế lực này là cánh tay trợ thủ đắc của ”nhóm lợi ích”. Qua cánh tay này, ”nhóm lợi ích” đã đe dọa và khủng bố nhiều doanh nghiệp để thực hiện những phi vụ sát nhập, bức tử doanh nghiệp lương thiện.
Chưa dừng lại ở những hành vi can thiệp vào kinh tế đất nước, thế lực đen ở BCA còn đe dọa đến các ủy viên trung ương, ép buộc các ủy viên trung ương phải theo ý của chúng, trong những cuộc bỏ phiếu ở trung ương về những vấn đề trọng đại của đất nước. Dễ dàng nhìn thấy những hành vi đen tối của thế lực này qua những hành vi nổi bật mấy năm gần đây:
1) Lũng đoạn ngành công an.
2) Can thiệp vào kinh tế đất nước.
3) Can thiệp vào đường lối, chủ trương của Đảng.
Thế lực đen của Nguyễn Văn Hưởng và “đồng chí X”
Sự hình thành của thế lực đen trong ngành công an bắt đầu từ khi Nguyễn Văn Hưởng lên nắm quyền thứ trưởng Bộ Công An, coi sóc việc an ninh quốc gia.
Vì chủ trương sai lầm của ĐCSVN là quá chú trọng tới việc ổn định chính trị, đến mục tiêu giữ quyền lãnh đạo tuyệt đối, nên Nguyễn Văn Hưởng đã lợi dụng trọng trách bảo vệ an ninh chính trị được giao. Hưởng thành lập bộ máy an ninh khổng lồ và đầy thế lực nhất từ xưa đến nay. Bộ máy an ninh này đủ khả năng để can thiệp tác động vào nền chính trị Việt Nam, tương tự như Tổng Cục 2 của quân đội đã từng làm trước kia. Đấy chính là mục tiêu mà Nguyễn Văn Hưởng ít nhiều đã đạt được. Bóng ma của TC2 quân đội đã được xóa mờ, khi BCT khéo léo đẩy Nguyễn Chí Vịnh lên làm thứ trưởng bộ Quốc Phòng. Tách Vịnh ra khỏi cơ quan tình báo này, bằng cách thăng chức. Thế nhưng, xong được vấn đề TC2 thì khoảng trống đó lại bị Nguyễn Văn Hưởng nhìn thấy. Lập tức kẻ cơ hội Nguyễn Văn Hưởng đã nhanh chóng chiếm lấy khoảng trống này, tiếp tục việc lũng đoạn nền chính trị Việt Nam như TC2 Quân đội đã làm trước kia.
Âm mưu của Nguyễn Văn Hưởng thành công nhờ được sự ủng hộ, đỡ đầu của một nhân vật đầy thế lực là đồng chí X. Vì sao đồng chí X lại đỡ đầu cho thế lực này? Vì đồng chí X từng là thứ trưởng an ninh BCA. Vì đồng chí X chính là thủ lãnh của ”nhóm lợi ích”. Đây chính là động cơ chủ đạo lớn nhất của đồng chí X. Đồng chí X cần có những thế lực trung thành, bảo vệ quyền lực của mình, cũng như bảo vệ lợi ích của thân hữu, đàn em trung thành của mình. Bởi sự phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề và tình trạng tồn tại ung nhọt như vậy đã kéo dài, giải quyết được quốc nạn này không phải là một nhát cắt là xong. Muốn triệt phá được thế lực này trong BCA nói chung, đưa được Phạm Quý Ngọ ra vành móng ngựa nói riêng là điều không đơn giản. Phải phân biệt được đâu là những đồng chí lãnh đạo ngành công an vì dân vì nước. Đâu là bọn sâu mọt, lợi ích nhóm, lũng đoạn chính thể CHXHCNVN?
Khích lệ nhân tố tích cực
Trước tình hình nhạy cảm như vậy, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thay mặt Đảng và Nhà Nước, Nhân Dân trao tặng bằng khen cho Tổng Cục An Ninh 2. Đây là một hành động đầy ý nghĩa, một thông điệp gửi đến các lãnh đạo công an có lương tri rằng: Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân luôn đánh giá đúng công lao, đóng góp của ngành công an trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thông điệp trong hành động đó của chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng cho biết rằng: Đảng, Nhà Nước chủ trương làm sạch tham nhũng. Tấn công vào những kẻ lợi dụng chức vụ để trục khoét đất nước, sống phè phỡn trên của cải kiếm được bằng thủ đoạn, làm hại đến sự phát triển của đất nước và tổn hại đến đời sống nhân dân lao động.
Nếu như các lãnh đạo và chiến sĩ công an hiểu được thông điệp này, thì số phận Phạm Quý Ngọ sẽ sớm được định đoạt. Đến nay một số đồng chí lãnh đạo các tổng cục, cục, vụ… trong ngành công an vẫn đang bị dao động tư tưởng, hiểu nhầm cho rằng Đảng và Nhà Nước tấn công ngành công an. Sự hiểu nhầm này xuất phát từ những tuyên truyền sai lạc của thế lực đen trong BCA và bọn ”lợi ích nhóm”. Đây là âm mưu thâm độc của chúng khi sắp chết tung ra những đòn bẩn thỉu cuối cùng. Chúng chỉ là một phần rất nhỏ trong BCA đã dính chàm đang lu loa, hù dọa kéo theo những người khác vô can vào cuộc.
Lòng Dân quyết định
Không có con đường thoát nào cho bọn tội phạm tham nhũng có tổ chức này. Chúng thân Mỹ, tất phải nhìn bài học Dương Chí Dũng bị khước từ nhập cảnh. Chúng thân Trung Quốc, tất thấy chủ tịch Tập Cận Bình đang giương cao ngọn cờ chống tham nhũng rất mạnh mẽ. Còn ở trong nước , hẳn chúng thấy người dân sôi sục thế nào. Cũng như chúng thấy sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta mạnh mẽ chống tham nhũng nhường nào. Dẫu cắt cánh tay lở loét có thể dẫn đến tử vong, nhưng thà chết với một thân hình không bị lở loét, dù thiếu một cánh tay, còn hơn chết với một thân hình lở loét, ung nhọt, mủ… mà còn nguyên vẹn tứ chi.
Ý chí ấy của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của chủ tịch Trương Tấn Sang thật quả cảm và hào hùng. Ý chí ấy cũng là nguyện vọng của nhân dân, đất nước ta đang khao khát bao nhiêu năm nay. Chưa lúc nào ý Đảng, lòng Dân lại hợp nhau như lúc này. Những kẻ tham nhũng phải chết. Đó là tiếng chuông báo tử cho Phạm Quý Ngọ và những đồng bọn của chúng. Những người vô can hay vì khách quan dính líu đến chúng. Hãy liệu mình lúc này chưa muộn.
http://chepsuviet.wordpress.com/2014/01/19/vu-pham-quy-ngo-va-cuoc-chien-voi-the-luc-den-khong-lo-19012014/
Friday, January 17, 2014
Trường ca ngày về
Anh vẫn đợi ngày thanh bình trở lại.
Anh sẽ về với một khối tình say.
Cho em cả cuộc đời áo chiến bạc vai,
thơm mùi nắng cháy.
Cho em hết không còn gì giữ lại.
Cả tháng ngày nằm rừng ngủ bụi
Những đêm dài kịch chiến giữa rừng hoang.
Như đêm nay
Trên tay anh khói súng vẫn chưa tan
Mười ngón run run trên thép lạnh.
Run như môi em căng sữa xuống môi anh.
Anh muốn bắn cho đêm tan loãng hết
Hỏa châu buồn ấm ức nổ trong mây.
Anh lướt mình trong lửa đạn.
Như đêm nào điên dại uống cạn hết men say
Máu của bạn, máu của thù đông đặc.
Say khói súng môi anh đắng ngắt
Nghe căm hờn trong máu nóng chưa tan
Đêm dài mãi lạnh lùng nơi chiến địa
Đêm thao thức giữa núi rừng hoang phế
Lời thở than trong gió mãi âm vang
Anh nghe tiếng chim kêu sương lạnh ngắt
Anh nghe rừng chuyển mạch rất thê lương
Đêm vô vọng chân trời còn đen đặc
Bình minh muộn màng xin khao khát đi lên.
Như sớm mai nào thèm khát hôn em
Môi mật ngọt chết run từng thớ thịt
Tay rung động ngất ngây vòng quá khít
Nghe máu mình luân chuyển ở tim nhau.
Tiếng hú rừng rơi từ cõi thâm sâu
Đêm sỏi đá cựa mình đau rướm máu
Anh sẽ đợi mặt trời lên
Anh sẽ thức nhìn mặt trời kiêu ngạo
Nhỏ nắng hồng tươi sữa ngọt hài nhi.
Anh vẫn còn kiên nhẫn như ngày xưa
Giờ tan học
Đợi muộn màng em dưới gốc me xanh
Nón kín mặt chân kiêu sa em bước
Lòng anh chùng nuối tiếc vỡ mông mênh.
Biết bao lần anh muốn ngỏ yêu em
Lòng mở cửa nhưng hồn anh đã nghẹn
Chân bước vội mà không bao giờ đến
Dù cách em chưa quá nửa tầm tay.
Ôi mặt trời ngủ muộn quá đêm nay
Nghìn tiếng động của núi rừng thê thảm
Anh trườn mình trên cỏ sương đẫm ướt
Hơi tế bào trong lá thở run run
Nghe tim anh hừng hực lửa yêu thương
Tay đã lạnh ,súng nằm im ,muốn khóc.
Anh nhớ ngày xưa còn đi học
Hai đứa thường hò hẹn lúc chiều tan
Chân sẻ non êm bước dịu như tiên
Trên lối cỏ úa vàng xanh nắng hạ
Em thoăn thoắt chân ngày đi vội vã
Anh sỗ sàng trên tóc nhặt tơ vương
Đẹp làm sao, đẹp nhất những con đường
Từ Đồng Khánh đưa em về Gia Hội
Đã mấy năm rồi em vẫn còn chờ đợi.
Đời chiến binh. Nhiều lúc nghĩ mà thương.
Ngày yêu em mười tám, anh lên đường
Mắt đẫm lệ em tôi từ biệt khóc.
Anh vẫn nhớ vô cùng trong đôi mắt
Diu hiền thay lòng biển cả bao dung
Và đêm nay súng vẫn nổ không ngừng
Tay vẫn bắn mà lòng đau vô hạn
Những tiếng súng bắn vào đêm uất nghẹn
Từng âm thanh mục rữa bủa vây anh.
Biết bao người gục ngã trước bình minh
San sẻ máu cho thơm lòng đất mẹ
Cho hy vọng đâm chồi lên tiếng gọi
Cho cành khô xanh lá đón mùa xuân.
Dù một mai, lỡ anh về không còn đủ tay chân
Hay đôi mắt không còn xanh tình ái
Anh vẫn còn đôi tai nghe núi sông mở hội
Nghe em cười rộn rã nắng vàng hanh
Nghe mẹ già đưa võng dưới trăng thanh
Nghe kĩu kịt thôn vui mùa lúa mới.
Anh vẫn còn trái tim mở toang say ngày hội
Còn máu hồng làm xác pháo mua vui
Anh vẫn còn đôi môi
Để mời em nhập cuộc đêm say
Uống cạn hết men tình vừa ướp chín.
Anh sẽ đợi ngày về đi thắp lại mùa Xuân
Bằng ánh lưả yêu thương nhân loại
Anh sẽ đợi ngày về
Dù phải còn đợi mãi.
Ngày trở về yêu em với tay chân còn lại
Bằng những gì trong anh chưa phế thải.
Võng tình yêu sẽ đan xanh rêu mơi
Ru em vào hơi thở của mùa Xuân.
Đêm vô vọng chân trời còn đen đặc
Bình minh muộn màng xin khao khát đi lên.
Như sớm mai nào thèm khát hôn em
Môi mật ngọt chết run từng thớ thịt
Tay rung động ngất ngây vòng quá khít
Nghe máu mình luân chuyển ở tim nhau.
Tiếng hú rừng rơi từ cõi thâm sâu
Đêm sỏi đá cựa mình đau rướm máu
Anh sẽ đợi mặt trời lên
Anh sẽ thức nhìn mặt trời kiêu ngạo
Nhỏ nắng hồng tươi sữa ngọt hài nhi.
Anh vẫn còn kiên nhẫn như ngày xưa
Giờ tan học
Đợi muộn màng em dưới gốc me xanh
Nón kín mặt chân kiêu sa em bước
Lòng anh chùng nuối tiếc vỡ mông mênh.
Biết bao lần anh muốn ngỏ yêu em
Lòng mở cửa nhưng hồn anh đã nghẹn
Chân bước vội mà không bao giờ đến
Dù cách em chưa quá nửa tầm tay.
Ôi mặt trời ngủ muộn quá đêm nay
Nghìn tiếng động của núi rừng thê thảm
Anh trườn mình trên cỏ sương đẫm ướt
Hơi tế bào trong lá thở run run
Nghe tim anh hừng hực lửa yêu thương
Tay đã lạnh ,súng nằm im ,muốn khóc.
Anh nhớ ngày xưa còn đi học
Hai đứa thường hò hẹn lúc chiều tan
Chân sẻ non êm bước dịu như tiên
Trên lối cỏ úa vàng xanh nắng hạ
Em thoăn thoắt chân ngày đi vội vã
Anh sỗ sàng trên tóc nhặt tơ vương
Đẹp làm sao, đẹp nhất những con đường
Từ Đồng Khánh đưa em về Gia Hội
Đã mấy năm rồi em vẫn còn chờ đợi.
Đời chiến binh. Nhiều lúc nghĩ mà thương.
Ngày yêu em mười tám, anh lên đường
Mắt đẫm lệ em tôi từ biệt khóc.
Anh vẫn nhớ vô cùng trong đôi mắt
Diu hiền thay lòng biển cả bao dung
Và đêm nay súng vẫn nổ không ngừng
Tay vẫn bắn mà lòng đau vô hạn
Những tiếng súng bắn vào đêm uất nghẹn
Từng âm thanh mục rữa bủa vây anh.
Biết bao người gục ngã trước bình minh
San sẻ máu cho thơm lòng đất mẹ
Cho hy vọng đâm chồi lên tiếng gọi
Cho cành khô xanh lá đón mùa xuân.
Dù một mai, lỡ anh về không còn đủ tay chân
Hay đôi mắt không còn xanh tình ái
Anh vẫn còn đôi tai nghe núi sông mở hội
Nghe em cười rộn rã nắng vàng hanh
Nghe mẹ già đưa võng dưới trăng thanh
Nghe kĩu kịt thôn vui mùa lúa mới.
Anh vẫn còn trái tim mở toang say ngày hội
Còn máu hồng làm xác pháo mua vui
Anh vẫn còn đôi môi
Để mời em nhập cuộc đêm say
Uống cạn hết men tình vừa ướp chín.
Anh sẽ đợi ngày về đi thắp lại mùa Xuân
Bằng ánh lưả yêu thương nhân loại
Anh sẽ đợi ngày về
Dù phải còn đợi mãi.
Ngày trở về yêu em với tay chân còn lại
Bằng những gì trong anh chưa phế thải.
Võng tình yêu sẽ đan xanh rêu mơi
Ru em vào hơi thở của mùa Xuân.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/01/truong-ca-ngay-ve.html#.UtlOMZ7TmM8
Ai Là Tác Giả Bài Thơ "Tưởng Niệm Hoàng Sa"?
https://www.facebook.com/notes/osin-huyduc/ai-l%C3%A0-t%C3%A1c-gi%E1%BA%A3-b%C3%A0i-th%C6%A1-t%C6%B0%E1%BB%9Fng-ni%E1%BB%87m-ho%C3%A0ng-sa/674721889217709
Anh ruột tôi là 1 liệt sĩ hy sinh trên chiến hạm HQ 10, Nhật Tảo. Mấy chục năm nay tôi đã đọc biết bao nhiêu bài thơ, đoạn văn viết để tri ân các liệt sĩ anh hùng. Có một bài thơ thật đặc biệt với tôi vì nó được viết bởi 1 người miền bắc (khuyết danh) năm 1974. Theo đặc san Quảng Đà phát hành ở thủ đô Hoa thịnh Đốn, Hoa Kỳ, năm 2005 (Trang 84), bài thơ này đã được gửi từ miền bắc Việt Nam sang Pháp rồi từ đó chuyển về miền nam Việt Nam năm 1974 sau trận Hoảng Sa. Tôi đọc bài thơ này không biết bao nhiêu lần không chán... Lời thơ thật cảm động, sẻ chia và cũng đầy hùng khí. Vì tình hình chính trị năm 1974 Tác giả đã không thể để tên củamình. Hy vọng bây giờ với internet, chúng ta có thể tìm ra danh tánh của vị tác giả bài thơ này (Vũ Nam Nhuận ở Virginia, Mỹ)
TƯỞNG NIỆM HOÀNG SA
Xin kể thêm tôi: thành 19 triệu một người
Trái tim tôi đập về trong đó
Dòng máu xa nguồn bỗng giận sôi
Hoàng Sa, Hoàng Sa
Cái tên nghe buồn từ thuở ban sơ
Đối với tôi đã là da thịt
Dẫu chỉ là một mảnh san hô
Lại đau chăng vết buốt tự ngàn xưa
Trong sử cũ còn hằn dấu ngựa
Từ thảo nguyên xa
Từ biển ải lửa
Khói tràn về đen thẫm những ước mơ
Đếm bao người vợ đợi chờ
Em ơi, trên từng trang sử nhỏ
Xin kể thêm tôi, thành 19 triệu một người
Thành viên gạch hồng tươi
Làm bức tường thành, ngăn triền sóng dữ
Giữ không cho rơi một giọt mật nào
Mỗi giọt ra đi chính mỗi giọt máu đào, bao đời cha ông nhỏ xuống
Người bạn hải quân miền nam ơi
Trên đảo mù sương hôm đó có tay anh cầm súng
Từ những hạm tàu rẽ sóng đại dương
Tôi thấy pháo anh giương nòng sừng sựng
Cuộc chiến đấu kết thúc dù bị thảm
Bài ca anh hùng vẫn vọng trời cao
Xin cho thơ tôi góp phát súng chào
Vĩnh biệt tuần dương chìm giữa sóng
Đáy biển âm thầm ngàn năm lạnh cóng
Vẫn mặn nồng lòng tổ quốc ta
Một thi sĩ miền Bắc khuyết danh (1974 )
Thursday, January 16, 2014
Mướt mắt thưởng vẻ đẹp “Nhất chi mai”
Nhất chi mai là loại hoa có màu trắng pha hồng nhạt , dáng mảnh khảnh nhưng cứng cáp, tuy hoa nhỏ nhưng lại có nét đẹp thuần khiết, mùi thơm nhẹ nhàng .
Tương truyền người xưa lấy khí phách của mai ví như người quân tử, các nhà nho xem mình như những cành mai nở trong gió đông để luôn giữ mình thanh sạch |
Người cao tuổi chuộng cái già nua của lão mai, mong muốn tuổi già khỏe mạnh, trường thọ. Vóc dáng của mai còn được ví như người con gái quyền quý khuê các. |
Ngày nay mỗi dịp xuân về những nhất chi mai được chắm sóc ,cắt tỉa từ 6-10 năm thành lão mai và có dáng đẹp cao tầm 3 đến 4 gang tay. |
Hoa nở bung được những người sành chơi săn đón chọn mua để chơi tết. |
Câu chuyền tương truyền về nhất chi mai vẫn lưu truyền cho tới ngày nay rằng đi chúc nhau ngày tết |
Nếu bất chợt thấy mai trắng trong vườn nhà ai đó, thấy mai khiêm nhường, thanh tú bên bàn trà hoặc một khoảng lặng của căn phòng, ta sẽ có một cảm giác lạ thường nó vừa thánh thiện lại vừa êm đềm của không gian sống và đặc biệt cảm nhận được nét đẹp nhã nhặn của chủ nhân ngôi nhà |
http://infonet.vn/muot-mat-thuong-ve-dep-nhat-chi-mai-post115195.info
BÀI HỌC ĐẮNG CAY
BÀI
HỌC ĐẮNG CAY
Bây
giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã được giải mã gần hết. Những tài liệu này đã giúp chúng ta tìm
hiểu tại sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có
tinh thần chiến đấu rất cao, đã từng giữ vững miền Nam trong suốt 20 năm, lại
có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày?
Câu
trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho
quê hương không thể không biết đến.
Vào
tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức (từ
9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina
đã cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó có đề cập đến số phận của
miền Nam Việt Nam.
Tài
liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa xuân và mùa
hè 1972, Tổng thống Nixon đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South
Vietnam probably can never
even survive anyway). Ông nói với Cố vấn An ninh Kissinger: “Henry, chúng ta
cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó
hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại
giao sống còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm
kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger
trả lời: “Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại
giao sống còn nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam
Việt Nam (if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
Lúc
đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định
Paris có những điều khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, Tổng Thống Thiệu cũng
đã chấp nhận ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài
rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương
quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”
Nhưng
để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp
Định Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.
TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975
Đầu
năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng
1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và
381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang.
Lục
quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến,
liên đoàn 81 biệt cách dù, 15 liên đoàn biệt động quân (tương đương với 5 sư
đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết
giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn
một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly).
Không
quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm 20 phi đoàn
khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1 không đoàn tân trang
chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510
máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).
Hải
quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:
(1)
Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),
(2)
Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu
trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận
hạm và giang vận hạm).
(3)
các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái.
Làm
thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Trung Quốc và CSVN trong một
thời gian khoảng hai năm và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến cuộc chiến nữa?
ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Để
thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.
Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng
Tổng Tống Thiệu là người độc đoán và thích hành động theo cảm tính nên chẳng
nghe ai. Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho
biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông: “Tôi luôn là người quyết định. Luôn
luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một quyết định, nhưng rồi làm
quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi
chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một nhà chính trị
có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo đảm sẽ làm theo ý
họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng khi
Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện
Khiêm. Đây là những người không có tầm nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân
sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.
Quả
thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam và tìm ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ lãnh thổ
lại.
1.- Cắt bớt viện trợ
``
Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp
ĐịnhParis ngày 27.1.1973:
1972
– 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973
– 1974: 1 tỷ 026 triệu và
1974
– 1975 xuống còn: 700 triệu.
2.- Đánh lừa bằng tài liệu
Trong
cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể lại rằng ông
có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo do Tướng
John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên.
Mặc
dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm thấy bản văn
này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính của bản báo cáo đó
như sau:
-
Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư
của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
-
Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
-
Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc
tấn công của Bắc Việt;
-
Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều
đình được với Bắc Việt;
-
Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và
vùng châu thổ song Cửu Long.
Ông
Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như
mất đất vậy.”.
Từ
ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa bao giờ thấy
các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV hay DAO được tiết lộ
cho Bộ Tổng Tham Mưu hay bất cứ cơ quan nào của VNCH. Chúng ta chỉ biết được
một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ giải mã. Thế thì tại sao tài
liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có
âm mưu gì.
Ông
Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé
đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói: “Từng chiến lược cho
từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”.
Thật
ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là một bản phân
tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được
đề nghị. Nếu Tổng Thống Thiệu nghĩ đó là một đề nghị về kế hoạch hành động là
hoàn toàn sai lầm.
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả
Cơ
quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh
lừa Tổng Thống Thiệu.
Trong
bài thuyết trình “"Get Me Ten Years': Australia's Ted Serong in Vietnam,
1962-1975", bà Tiến sĩ Anne Blair, một giảng viên về Quan Hệ Quốc Tế và
Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of Technology ở Úc, đã cho
biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có tiếp xúc với Tướng
Ted Serong và yêu cầu ông ta đưa ra một kế hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted
Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân
Lực VNCH đã được triển khai ở phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số
và 1/3 tài nguyên của miền Nam.
Chúng
ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm lẫn tướng Đặng Văn Quang đều là nhân
viên CIA được cài vào để theo dõi và kiểm soát các hành động của Tổng Thống
Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm gặp tướng Ted Seron là theo
lệnh của CIA.
Ông
Hưng cho biết Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh
Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập một phòng tuyến
kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút quân!
Tướng
Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?
Tướng
Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn Luyện Quân Đội
Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm về chiến trường Đông
Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân đội Miến Điện. Do kinh nghiệm
của ông về chống nổi dậy (counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông vừa chỉ huy một toán nhỏ
người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV dưới thời Tướng Harkins. Theo bà
Blair, Tướng Harkins không tin vào chống nổi dậy và ông không muốn một cố vấn.
Tướng Ted Serong đã đưa nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không
được áp ứng.
Như
vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông không phải là
một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài bẩy Tổng Thống Thiệu.
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ
Năm
1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần, rút quân về
phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin vì hai lý do:
(1)
Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được vì địa hình
không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.
(2)
Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết với Hà Nội
và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn định lại biên giới
giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái phối trí” mới có thể thực
hiện được.
Vì
thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu chưa thương
thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại. Nhưng ông Thiệu đã
làm điều điên rồ đó. Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo
cho Tổng Thống Thiệu thời hạn chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc
nội trong tháng hai. Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha
Trang, rằng ngài nên "chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di
cư!
Ngày
10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại được. Nhân vụ
này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng
Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân
Đoàn 2. Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao Văn Viên:
-
Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng
Viên trả lời:
-
Không còn.
Tổng
Thống Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
-
Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng
Phú trả lời:
-
Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện không quân yểm trợ tối đa và tiếp
tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
Tổng
Thống Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy phải rút
khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển
tiếp tế thuận lợi hơn. Tổng Thống Thiệu hỏi:
-
Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng
Viên trả lời:
-
Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà
không bị tiêu diệt.
Tổng
Thống Thiệu lại hỏi:
-
Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng
Viên nói:
-
Đường 14 càng không được.
Sau
khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy dài
(khoảng 228 km) và xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.
Tổng
Thống Thiệu chỉ thị không thông báo cho các tiểu khu và chi khu biết, cứ để họ
tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết. Tổng Thống nói địa
phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả chúng về với Cao nguyên.
Như vậy các tỉnh trưởng, quận trưởng, địa phương quân, cảnh sát, phòng vệ dân
sự và các nhân viên hành chánh đều bị bỏ lại.
Đại
Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn Tướng để
chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo cho Mỹ biết.
ĐOÀN QUÂN TAN RÃ
Diễn
biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi
lại những nét chính.
-
Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, đó là các
Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn biệt phái từ Sài
Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36 tiểu đoàn địa phương quân.
-
Xe tăng và thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230
khẩu các cỡ từ 105 đến 175mm.
-
Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc),
1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
-
Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân
đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột.
-
Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku.
Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
-
Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết đoàn 19,
Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua khỏi Phú Bổn, đèo
Tuna và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu. Sáng 16.3.1975 đoàn quân
mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn.
-
Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng
93 km và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
-
Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và dân tiến
về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo một đoàn quân xa
khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng gần 2000 chiếc. Liên Đoàn
4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng
và thường đạp lên nhau để tiến tới trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh
lỵ Phú Bổn vì không tiến được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn
khoảng 4 km.
Vì
cuộc rút quân quá bất ngờ nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư Lệnh Tây
Nguyên của Cộng quân mới biết được và ra lệnh cho tiểu đoàn 9 thuộc trung đoàn
64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận Mẫn, đem quân chận ở đèo
Tuna và pháo kích vào đoàn quân và dân đang dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng
Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi từ trường tiểu học Phú Bổn, đã chỉ huy
ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh,
đang chỉ huy ở dưới đất, phải phá cho được cái chốt này. Có không quân bay tới
yểm trợ.
Liên
đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu đã cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá
cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng tôi biết Biệt Động
Quân, thiết giáp và không quân đã không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng nào
bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân
của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán
loạn, nên đoàn quân tan rã. Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân
phải lội bộ đi vòng dưới chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng đã bị bắt
khi đến gần Củng Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh,
theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng và về được đến Phú Yên.
Liên
Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công dữ dội, cũng
đã bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19 và Liên Đoàn 6 BĐQ về tới được Tuy Hòa.
Một
cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị Cộng
quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân chúng di tản
theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do hỏa lực của cả hai
bên, do đuối sức hay đói không ước tính được. Đa số phải trở lại Pleiku.
ooOoo
Kể
từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam cả về quân
sự, kinh tế lẫn chính trị và đưa người của họ lên nắm chính quyền. Trong tình
trạng như vậy, miềnNam khó quyết định được số
phận của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước dân
tộc và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm của ông gây
ra.
Chiều
29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc trực
thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.
Ngày 18.4.2013
L.G
----------------
Được đăng bởi Bùi Văn Bồng vào
lúc 22:40
Subscribe to:
Posts (Atom)