Bây
giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã được giải mã gần hết. Những tài liệu này đã giúp chúng ta tìm
hiểu tại sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có
tinh thần chiến đấu rất cao, đã từng giữ vững miền Nam trong suốt 20 năm, lại
có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày?
Câu
trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho
quê hương không thể không biết đến.
Vào
tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức (từ
9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina
đã cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó có đề cập đến số phận của
miền Nam Việt Nam.
Tài
liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa xuân và mùa
hè 1972, Tổng thống Nixon đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South
Vietnam probably can never
even survive anyway). Ông nói với Cố vấn An ninh Kissinger: “Henry, chúng ta
cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó
hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại
giao sống còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm
kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger
trả lời: “Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại
giao sống còn nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam
Việt Nam (if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
Lúc
đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định
Paris có những điều khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, Tổng Thống Thiệu cũng
đã chấp nhận ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài
rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương
quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”
Nhưng
để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp
Định Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.
TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975
Đầu
năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng
1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và
381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang.
Lục
quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến,
liên đoàn 81 biệt cách dù, 15 liên đoàn biệt động quân (tương đương với 5 sư
đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết
giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn
một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly).
Không
quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm 20 phi đoàn
khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1 không đoàn tân trang
chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510
máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).
Hải
quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:
(1)
Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),
(2)
Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu
trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận
hạm và giang vận hạm).
(3)
các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái.
Làm
thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Trung Quốc và CSVN trong một
thời gian khoảng hai năm và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến cuộc chiến nữa?
ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Để
thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.
Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng
Tổng Tống Thiệu là người độc đoán và thích hành động theo cảm tính nên chẳng
nghe ai. Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho
biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông: “Tôi luôn là người quyết định. Luôn
luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một quyết định, nhưng rồi làm
quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi
chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một nhà chính trị
có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo đảm sẽ làm theo ý
họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng khi
Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện
Khiêm. Đây là những người không có tầm nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân
sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.
Quả
thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam và tìm ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ lãnh thổ
lại.
1.- Cắt bớt viện trợ
``
Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp
ĐịnhParis ngày 27.1.1973:
1972
– 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973
– 1974: 1 tỷ 026 triệu và
1974
– 1975 xuống còn: 700 triệu.
2.- Đánh lừa bằng tài liệu
Trong
cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể lại rằng ông
có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo do Tướng
John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên.
Mặc
dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm thấy bản văn
này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính của bản báo cáo đó
như sau:
-
Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư
của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
-
Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
-
Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc
tấn công của Bắc Việt;
-
Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều
đình được với Bắc Việt;
-
Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và
vùng châu thổ song Cửu Long.
Ông
Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như
mất đất vậy.”.
Từ
ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa bao giờ thấy
các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV hay DAO được tiết lộ
cho Bộ Tổng Tham Mưu hay bất cứ cơ quan nào của VNCH. Chúng ta chỉ biết được
một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ giải mã. Thế thì tại sao tài
liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có
âm mưu gì.
Ông
Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé
đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói: “Từng chiến lược cho
từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”.
Thật
ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là một bản phân
tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được
đề nghị. Nếu Tổng Thống Thiệu nghĩ đó là một đề nghị về kế hoạch hành động là
hoàn toàn sai lầm.
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả
Cơ
quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh
lừa Tổng Thống Thiệu.
Trong
bài thuyết trình “"Get Me Ten Years': Australia's Ted Serong in Vietnam,
1962-1975", bà Tiến sĩ Anne Blair, một giảng viên về Quan Hệ Quốc Tế và
Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of Technology ở Úc, đã cho
biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có tiếp xúc với Tướng
Ted Serong và yêu cầu ông ta đưa ra một kế hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted
Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân
Lực VNCH đã được triển khai ở phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số
và 1/3 tài nguyên của miền Nam.
Chúng
ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm lẫn tướng Đặng Văn Quang đều là nhân
viên CIA được cài vào để theo dõi và kiểm soát các hành động của Tổng Thống
Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm gặp tướng Ted Seron là theo
lệnh của CIA.
Ông
Hưng cho biết Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh
Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập một phòng tuyến
kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút quân!
Tướng
Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?
Tướng
Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn Luyện Quân Đội
Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm về chiến trường Đông
Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân đội Miến Điện. Do kinh nghiệm
của ông về chống nổi dậy (counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông vừa chỉ huy một toán nhỏ
người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV dưới thời Tướng Harkins. Theo bà
Blair, Tướng Harkins không tin vào chống nổi dậy và ông không muốn một cố vấn.
Tướng Ted Serong đã đưa nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không
được áp ứng.
Như
vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông không phải là
một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài bẩy Tổng Thống Thiệu.
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ
Năm
1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần, rút quân về
phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin vì hai lý do:
(1)
Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được vì địa hình
không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.
(2)
Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết với Hà Nội
và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn định lại biên giới
giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái phối trí” mới có thể thực
hiện được.
Vì
thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu chưa thương
thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại. Nhưng ông Thiệu đã
làm điều điên rồ đó. Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo
cho Tổng Thống Thiệu thời hạn chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc
nội trong tháng hai. Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha
Trang, rằng ngài nên "chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di
cư!
Ngày
10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại được. Nhân vụ
này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng
Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân
Đoàn 2. Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao Văn Viên:
-
Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng
Viên trả lời:
-
Không còn.
Tổng
Thống Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
-
Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng
Phú trả lời:
-
Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện không quân yểm trợ tối đa và tiếp
tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
Tổng
Thống Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy phải rút
khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển
tiếp tế thuận lợi hơn. Tổng Thống Thiệu hỏi:
-
Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng
Viên trả lời:
-
Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà
không bị tiêu diệt.
Tổng
Thống Thiệu lại hỏi:
-
Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng
Viên nói:
-
Đường 14 càng không được.
Sau
khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy dài
(khoảng 228 km) và xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.
Tổng
Thống Thiệu chỉ thị không thông báo cho các tiểu khu và chi khu biết, cứ để họ
tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết. Tổng Thống nói địa
phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả chúng về với Cao nguyên.
Như vậy các tỉnh trưởng, quận trưởng, địa phương quân, cảnh sát, phòng vệ dân
sự và các nhân viên hành chánh đều bị bỏ lại.
Đại
Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn Tướng để
chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo cho Mỹ biết.
ĐOÀN QUÂN TAN RÃ
Diễn
biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi
lại những nét chính.
-
Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, đó là các
Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn biệt phái từ Sài
Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36 tiểu đoàn địa phương quân.
-
Xe tăng và thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230
khẩu các cỡ từ 105 đến 175mm.
-
Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc),
1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
-
Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân
đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột.
-
Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku.
Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
-
Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết đoàn 19,
Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua khỏi Phú Bổn, đèo
Tuna và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu. Sáng 16.3.1975 đoàn quân
mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn.
-
Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng
93 km và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
-
Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và dân tiến
về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo một đoàn quân xa
khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng gần 2000 chiếc. Liên Đoàn
4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng
và thường đạp lên nhau để tiến tới trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh
lỵ Phú Bổn vì không tiến được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn
khoảng 4 km.
Vì
cuộc rút quân quá bất ngờ nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư Lệnh Tây
Nguyên của Cộng quân mới biết được và ra lệnh cho tiểu đoàn 9 thuộc trung đoàn
64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận Mẫn, đem quân chận ở đèo
Tuna và pháo kích vào đoàn quân và dân đang dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng
Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi từ trường tiểu học Phú Bổn, đã chỉ huy
ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh,
đang chỉ huy ở dưới đất, phải phá cho được cái chốt này. Có không quân bay tới
yểm trợ.
Liên
đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu đã cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá
cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng tôi biết Biệt Động
Quân, thiết giáp và không quân đã không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng nào
bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân
của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán
loạn, nên đoàn quân tan rã. Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân
phải lội bộ đi vòng dưới chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng đã bị bắt
khi đến gần Củng Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh,
theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng và về được đến Phú Yên.
Liên
Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công dữ dội, cũng
đã bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19 và Liên Đoàn 6 BĐQ về tới được Tuy Hòa.
Một
cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị Cộng
quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân chúng di tản
theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do hỏa lực của cả hai
bên, do đuối sức hay đói không ước tính được. Đa số phải trở lại Pleiku.
ooOoo
Kể
từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam cả về quân
sự, kinh tế lẫn chính trị và đưa người của họ lên nắm chính quyền. Trong tình
trạng như vậy, miềnNam khó quyết định được số
phận của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước dân
tộc và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm của ông gây
ra.
Chiều
29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc trực
thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.
Ngày 18.4.2013
L.G
----------------
No comments:
Post a Comment