Wednesday, January 16, 2013

VĂN TẾ QUAN THAM - Kha Tiệm Ly

Văn tế quan tham 
Kha Tiệm Ly

Hỡi ôi!
Nước chảy lạnh lùng,
Mưa bay lất phất!
“Cây trong núi ngàn tuổi dễ tìm,
Người ở đời trăm năm khó gặp!”

Lúc sống, nhà còn ở mấy tầng,
Khi chết, thây cũng vùi ba tấc! 

Nhớ linh xưa,
Quyền thế ngang trời,
Uy phong lệch đất!
Đi nửa bước, hộ vệ bám kè kè,
Ho một tiếng dân đen run lập cập!

Rõ là:
Trôn con trẻ trây cứt trây phân,
Miệng nhà quan có gang có thép!
Mánh mung rút bòn vật liệu, mà cầu đường nhà nước xuống cấp ào ào,
Lập lờ cắt xén đất đai, nên nhà xe quan ngài lên đời tới tấp!
Mặc người đi đường té xuống té lên,
Thây kẻ qua cầu rớt tim rớt mật!
Nói sao xuể, bao điều vô sỉ từ nhỏ đến to,
Ghi khôn cùng, đủ lối gian manh từ A tới Z!
Xem báo viết, thiếu điều nhức óc nhức xương,
Mở “web- sai”, càng thêm tối mày tối mặt!

Thế mà,
Vào công vào việc, lơ mơ tựa giống cù lần,
Thấy của thấy tiền, lít xích như con lật đật!
Thời làm lính, học lem nhem ba chữ i tờ,
Lúc lên quan, “đậu” lủ khủ một lô bằng cấp!
Ruộng tốt trăm vuông,
Vàng ròng thiên dật!
Cược ván cờ vài tỉ, việc tưởng như đùa,
Đặt canh bạc vạn “đô”, không dè chuyện thật!
Châu đầu châu mặt cố moi dự án trên trời,
Quơ tay quơ chân cứ nhét nong đầy túi.
Là trưởng giả ai lại xài thứ bèo Phú Lễ, Gò Đen.
Đã nhà quan thì phải chơi hàng hiệu “Mạc- Ten”, “Cô Nhắc!”
Bạc vàng đem bỏ vào tráp vào rương,       
Xe công mang đi sờ đùi sờ nách!          
Bạc trắng của chùa, xài hoang vung thẳng hai tay;
Đít đen thằng mõ, chạy thuế lòi đom một khúc!
Bất lương đâu kém gì thằng Tần Cối, Tần… Chày,
Vô sỉ chẳng thua lũ Hòa Thân,  Hòa… Thiết! (!)

Lạ chi,
Tai trâu mặt lợn, nào dè muôn tiếng thị phi,
Mồm thép miệng gang, chẳng tiếc trăm điều hống hách!.
Báo ngày tốn bao nhiêu mực, xem chừng đàn khảy tai trâu,
Báo mạng mất bấy nhiêu công, nào khác nước ngoi đầu vịt!

Chỉ vì
Cái óc cái tim đen cỡ mực tàu ,
Cái mặt cái mày, dày như tấm thớt!
Để rồi hôm nay,
Khi thân tại chức, chẳng xì được tiếng thơm tho,
Lúc xác ém sâu, vẫn bốc ra mùi thúi hoắc!
Ngán uy sợ thế, bao người trước mặt cúi đầu,
Miệt đức khi tài, khối kẻ sau lưng đấm c…*
Con thơ nhóc nheo mấy hệ, mặc người xưng bố, xưng ba,
Vợ trẻ mơn mởn dăm bà, mạnh kẻ đổ lờ đổ lọp!
Tim gan dơ tợ máu cùi,
Tiếng tăm thúi hơn cóc chết!
Ngưu đầu mã diện đành giở nón chào thua,
Quỉ sứ ma vương cũng dập đầu bái phục!

Những tưởng,
Sống, tiếng nổi lẫy lừng,
Chết, người thăm chật ních!

Nào dè,
Từ lúc xuôi tay,
Tới khi liệm xác.
Ngoài vợ con thì khóc hu hu,
Còn ai nấy đều cười khặc khặc!

Hôm nay,
Rặn dăm câu dăm chữ, thảo điếu văn thống thiết một bài,
Quệt chút ớt chút tiêu, cho làng xóm xốn xang đôi mắt!
Đã không cửa đi đến Tây Thiên,
Thì chắc ăn tìm về Địạ Ngục!
Thành kính dâng ngài,
Nói nhiều không tốt!
Ô hô! Có linh xin hưởng!

Chú Thích: 

* Thành ngữ :  “cúi đầu trước mặt, đấm c… sau lưng”

Nguồn: TranNhuong.com




Văn tế sống quan tham  


Hỡi ơi!

Ba sáu tàn vàng
Lẽ nào vứt bỏ.
Dẫu bao năm ngang dọc, chốn triều đình danh nổi như phao;
Vài đận tính sai cơ, tiếng quan tham mãi vang như mõ!
Nhớ oai xưa
Quê mẹ đất nghèo
Dân cùng nước khổ
Trải bao trận mạc, cấm vận triền miên
Đói nghèo nhìn nhau, bữa cơm bữa củ.
Bán quán, bơm xe, nắm than, bổ củi, tay vốn quen làm;
Xế hộp, mô bai, khách sạn, nhà hàng, mắt chưa từng ngó.
Thấy nước người đổi đời trong thập kỉ, lòng những mong chóng mọc vẩy rồng;
Chịu nghèo hèn khốn khó mấy chục niên, bụng ao ước mau mang lốt hổ.
Ngó thấy tiền Tây xanh tím đỏ, chỉ muốn vơ ngay
Nhìn vào xe Mĩ phóng tít mù, ước tư bản đổ!
Trước cảnh nước nhà hèn kém, chẳng lẽ ngồi đầu gối quá tai;
Gió đông đà nhụt gió tây, thôi thì cũng rỡ rào mở cửa.

Pu tủng* luật này lệ nọ, gan cùng mình dốc sức ngoáy trời (* Không hiểu – gốc tiếng Tàu)
Mo phú* nợ cháu con lo, vốn nào cũng vơ vào đầy rổ. (* Cóc sợ – gốc tiếng Pháp)

Cũng khen thay!

Vốn chẳng dòng kinh bang tế thế, gốc từ vệ túm mà ra;
Phẫu thuật da “tiến sĩ công nông”, nhoáng cái tước cao đã bổ.
Ngón kinh tế thị trường nào đợi tập rèn;
Nghề định hướng kinh doanh kiệm thời gian ngó.
Ngoài vỏ khoác rừng vàng biển bạc, thoải mái đào với bắt, khỏi bàn;
Trong tay gom triệu sức lao công, lương chỉ góc tiền “đô”, quá đủ!
Đất đai cứ tha hồ bán đổi, cũng lôi vào khối nước Tây, Tàu.
Ruộng vườn đền giá rẻ như bèo, khéo dỗ dân đà vui hớn hở.
Ba chục năm đổi mới, may phùng thời thế, lướt tới ào ào, cũng gặt về vô khối thành công;
Triệu dân nông thay đời, dù mếu dù tươi, cuốc cầy phăng phăng, khiến sản vật dần thêm béo bở.
Tạo liên doanh, xây siêu thị, thổi phố phường ngày một phình to;
Ủi sân gold, san chế xuất, kẹp đồng bãi hết phương nẩy nở.

Chao ôi!
Những tưởng vận đỏ đến hồi, cừu dê chuyến này hóa hổ;
Nào hay dân đen khốn khổ, lươn trạch sao giống được rồng?
Vốn tại máu tham ẩn trong tâm, thấy vàng đời nào chịu bỏ.
Ngó sang Tiên Lãng, sú vẹt mấy dặm sầu giăng;
Nhìn bãi Văn Giang, già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Chẳng phải du côn, cao bồi Mĩ quốc, mà to gan chống lại lính triều đình;
Vốn không phá nhà, cướp đất của ai, mà chịu còng tội tù cho đáng số!

Ấy bởi!

Trên sao dưới vậy, tâm xà đeo mặt từ bi;
Quan đã mở đường, ắt nhũng nhiễu quân lệ bộ.
Nhóm đại gia dựa hơi cấu kết, lợi ích chia phần;
Mặc thảo dân nhà cửa tan hoang, xiêu mưa ngã gió.
Rừng nguyên sinh bao nhiêu gỗ tốt, chia phần nhau tha hồ đốn, đổ tội tặc lâm;
Mỏ hiếm quí ngồn ngộn bạc vàng, xúi họ hàng mặc sức đào, giấy gì chẳng có!
Chúng dân cứ kêu ca oán thán, kêu chán rồi cũng đến thôi;
Triều đình biết mà phải chịu thua, chứng cớ đâu đành tay bó.

Vậy nhưng!

Cứ tưởng trăm bề kín thế là cùng, lại thêm phên che rào chắn khắp nơi;
Kính Chiếu yêu đà mỡ bôi đen bóng, Thiên Lí Nhỡn chắc nản lòng đành bỏ.
Cho nên ngân khố cứ việc đem tiêu, quẳng vàng đổi về bấy nhiêu tầu nát;
Thả sức tiền gian vung xây phủ đệ, rải bạc tạo đường mê lộ ngân kho.
Kệ đau đớn bấy: bà già ngồi run rẩy, nóc chuồng trâu lũ lụt vây quanh;
Mặc não nùng thay: trẻ chân đất đến trường, rét đại hàn phong phanh dúm dó.

Thế rồi!

Hội Diên Hồng đột ngột nổ ra,
Khiến chúng dân xốn xao ngóng ngó.
Binh tướng tham vẫn giữ sông Tô Lịch, võng lọng cụp nhưng còn khối ô dù;
Lương đống thiện tuy lùa gió Hồng Hà, chưa đủ mạnh để khử mùi thối chó.
Đấu mà trả nước non bớt nợ, danh thơm đồn sáu mươi tư tỉnh đều khen;
Ngậm để giữ vẹn ghế nguyên ngai, mùi khắm ngấm ba đời cháu con còn đó.
Dân mở miệng, được nói được nghe, trăm triệu người ủng hộ triều đình, trò tham nhũng lắm chuyện phanh phui;
Dám vì dân, thiệt cũng vì dân, dầu cáo quan nhận trăm mét đất, đức thanh liêm tắt đèn vẫn tỏ.
Khá khen người nhóm lửa, dù bếp ẩm, củi khô lẫn với củi tươi, kiên nhẫn quạt khói đều tay, dần dà lò sẽ rực hồng.

Đáng ngợi đám thảo dân, chí đã đồng, gian tặc dù ẩn thật sâu, lò bỏng cũng cháy mặt lang, cáo già hết đường giả thỏ.

Ôi thôi thôi!
Trận địa mở toang;
Chúng dân đều rõ
Bạch tuộc kia rồi phải co vòi;
Quan tham sẽ về vườn cắt cỏ.

Thôi thì thế cũng là may;
Còn hơn vô tù ngóng cổ.
Dẫu xác còn ngất ngưởng, nhưng linh đã hết oai linh;
Gọi là kết cỏ đền bù, hạ trướng nguyện đền ơn chủ
Tàn vàng (mã) đủ ba sáu tàn vàng;
Xế sịn (mã) nhập loại hàng nguyên thủ.
Nổi lửa thật to;
Hóa theo cho đủ;
Mao đài vẩy cả chai;
Át hết mùi cáo cú…

Ô hô, ai tai!
Đàn em tiễn cụ!!!
Ngọc Châu
Theo blog TN

No comments:

Post a Comment