Saturday, January 5, 2013

NHIỀU TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI CHỨNG TỎ HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

Nhiều tài liệu nước ngoài cho thấy Hoàng Sa là của VN
Cập nhật lúc : 3:02 PM, 13/04/2009
Không chỉ các sử liệu của triều Nguyễn mà rất nhiều tài liệu nước ngoài đầu thế kỷ 19 cũng cho thấy, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa liên tục và từ rất lâu.
>> Bộ Ngoại giao tiếp nhận tờ lệnh về Hoàng Sa
>> Tặng tờ lệnh quý về Hoàng Sa cho Nhà nước
>> Báu vật khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam
Nhiều tư liệu nước ngoài góp phần khẳng định, việc xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa qua các giai đoạn lịch sử, trong đó có thời nhà Nguyễn, đã được tiến hành liên tục và Việt Nam có đủ cơ sở khoa học, pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này.
Năm 1816, hoàng đế Gia Long đã sở hữu quần đảo Hoàng Sa
Năm 1816, hoàng đế Gia Long đã sở hữu quần đảo Hoàng Sa
Trong rất nhiều tư liệu của nước ngoài đề cập quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, có một số tư liệu xuất hiện gần như cùng thời điểm nhà Nguyễn xác lập chủ quyền biển, đảo vào năm 1816, hoặc chỉ muộn hơn vài chục năm. Đây là những tư liệu quý và rất khách quan, vì chúng ra đời vào thời điểm nước Pháp chưa mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam bằng vũ lực và dĩ nhiên, chưa đồng nhất chủ quyền của Việt Nam với quyền lợi của nước Pháp.
Tác giả A. Salles trong bài Hồi ký về xứ Đàng Trong của Jean Baptiste Chaigneau (viết vào những năm 1819-1820 dưới triều vua Gia Long) đăng ở tập san Đô thành Hiếu cổ Huế số 2, tháng 4-6 năm 1923, trang 257, cho biết, Jean Baptiste Chaigneau viết trong hồi ký rằng: “Xứ Đàng Trong, mà người đứng đầu ngày nay đã xưng đế hiệu, gồm có xứ Đàng Trong cũ, xứ Bắc Hà, một phần miền Nam, vài đảo gần bờ biển có dân cư, và quần đảo Hoàng Sa, gồm có nhiều đảo và mỏm đá không có dân cư. Vào năm 1816, vị đương kim hoàng đế (Gia Long) đã sở hữu quần đảo này”.
Trong cuốn sách Bức tranh Thế giới - Lịch sử và mô tả các dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán của họ, một ấn phẩm xuất bản hằng năm của nhà xuất bản Firmin-Didot Frères et Cie, Paris, bản năm 1833 có bài viết của giám mục Jean Louis Taberd, với đoạn: “Chúng tôi không rõ họ (ý nói người Việt) có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng điều chúng tôi biết chắc là hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của ngài. Vì vậy mà ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.
Vài năm sau, trên tập san Hội châu Á của xứ Bengal, xuất bản tại Calcutta, Ấn Độ, Giám mục Taberd trong bài Ghi chú về địa lý xứ Đàng Trong (đăng tập 4, tháng 9/1837) và bài Ghi chú thêm về địa lý xứ Đàng Trong (tập 7, tháng 4/1838) tiếp tục xác định: “Pracel hoặc Paracels được người Việt gọi là Cồn Vàng, tức Hoàng Sa. Tuy rằng quần đảo này không có gì ngoài những tảng đá và những cồn lớn hứa hẹn nhiều điều bất tiện hơn là lợi ích, vua Gia Long đã nghĩ đến việc mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm mảnh đất này. Năm 1816, nhà vua đã tới cắm cờ một cách long trọng và chính thức giữ chủ quyền các hòn đảo này, nơi hình như không một ai tranh giành với nhà vua”.
Trong "An Nam đại quốc họa đồ" , Hoàng sa thuộc Việt Nam.
Đặc biệt, trong cuốn Tự điển La tinh - Việt cũng của Giám mục Jean Louis Taberd, xuất bản năm 1838, còn đính thêm một bản đồ với tên gọi là “An Nam Đại quốc Họa đồ”, trong đó ghi rõ tọa độ và khẳng định Paracels hay Cát Vàng (tức Hoàng Sa) nằm trong lãnh hải của Việt Nam.
Tiếp theo, tác giả Gutzlaff trong bài viết Địa lý Vương quốc xứ Đàng Trong đăng trên tập san Hội Địa lý Luân Đôn tập 19, xuất bản tại London (Anh) năm 1849, cũng cho biết: “Ðáng ra chúng tôi không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa (Cát Vàng) nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 15 đến 20 dặm, trải dài giữa các vĩ tuyến 15 và 17 độ Bắc và các kinh tuyến 111 và 113 độ Ðông nếu vua xứ Đàng Trong không đòi quyền sở hữu quần đảo này, với nhiều đảo và ghềnh rất nguy hiểm cho nghề hàng hải, về tay mình... Chính quyền Việt Nam nhìn thấy những lợi ích có thể mang lại nếu một ngạch thuế được đặt ra, bèn thiết lập những thuyền quan và một trại quân nhỏ ở đây để đánh thuế tất cả người nước ngoài và bảo trợ ngư dân bản quốc”.
Cũng trong sách Bức tranh Thế giới-Lịch sử và sự mô tả các dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán của họ: Nhật Bản, Đông Dương, Tích Lan, xuất bản tại Paris năm 1850, Dubois de Jaucigny có bài viết nhắc đến sự kiện năm 1816: “...Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng hoặc Hoàng Sa, gồm rất nhiều hòn đảo đan chằng chịt vào nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho những người đi biển rất e ngại, đã được chiếm cứ bởi người xứ Đàng Trong”.
Qua những tài liệu trong nửa đầu thế kỷ 19 kể trên, có thể thấy sự kiện xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa năm 1816 rất được phương Tây lưu tâm thừa nhận, với nhiều chứng lý khá thuyết phục. Thậm chí, Giám mục Jean Louis Taberd trong hai tài liệu với hai thứ tiếng, hai thời điểm khác nhau còn khẳng định, vua Gia Long đã “thân chinh vượt biển”, “tới cắm cờ một cách long trọng” trên quần đảo Hoàng Sa.
Việt Nam có đủ bằng chứng về chủ quyền với Hoàng Sa
Tại sao chỉ trong vòng 30 năm (1820-1850), liên tiếp xuất hiện nhiều tài liệu do người phương Tây viết đề cập đến sự kiện vua Gia Long xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816? Trước hết, cần khẳng định sự kiện này hoàn toàn có thật, bởi không chỉ tư liệu nước ngoài mà tư liệu của chính triều Nguyễn để lại đã chứng minh điều đó.
Trong cuốn sử biên niên Đại Nam thực lục Chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 52 của Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 1, NXB Giáo Dục, Hà Nội, năm 2002, trang 922) ghi rõ: Vào tháng 3 năm Bính Tý (1816), vua sai thủy quân và đội Hoàng Sa cùng phối hợp đi thuyền ra quần đảo Hoàng Sa để xem xét, đo đạc thủy trình.
Cũng ngay trong tháng ba năm đó, vua Gia Long ra lệnh cho các dinh, trấn đo đạc đường biển, vẽ bản đồ vùng biển của từng địa phương để gửi về triều đình, nhằm xác định chủ quyền biển. Chính sự dấy động quân đội và bộ máy hành chính đo đạc lãnh hải ở Hoàng Sa cũng như trêntoàn quốc năm 1816 đã làm thay đổi nhận thức của nhân dân về chủ quyền trên biển của quốc gia; đồng thời khiến người nước ngoài xem đó là sự tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa thời Gia Long.
Sở dĩ người phương Tây nhìn nhận nhà Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền Hoàng Sa vào năm 1816 vì kể từ thời các chúa Nguyễn cho đến năm 1815, các đội Hoàng Sa có trách nhiệm khai thác, thăm dò thủy trình được cử đi đều lấy từ dân phu hay dân binh theo dạng nghĩa vụ, không phải quân đội thường trực của nhà nước, cũng không làm việc kiểm soát tàu thuyền qua lại ở Hoàng Sa. Năm 1816, lần đầu tiên thủy quân (chính quy) của nhà nước được cử đi phối hợp với đội Hoàng Sa ra quần đảo này để xem xét và đo đạc thủy trình, dựng mốc, cắm cờ. Hành động này biểu thị cho việc vua Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền về tay mình, với việc nhà vua bắt đầu quản lý Hoàng Sa bằng lực lượng quân sự chính quy.
Từ thời vua Minh Mạng, công việc đo đạc hải trình ra Hoàng Sa đều giao cho thủy quân. Việc đo đạc hải trình, vẽ bản đồ Hoàng Sa do Bộ Công, thủy quân, phối hợp với quan giám thành, quan địa phương Quảng Ngãi và đội dân binh Hoàng Sa thực hiện hằng năm khá đều đặn. Năm 1837, thủy quân đi Hoàng Sa vẽ được đồ bản 11 nơi. Đến năm 1838, Bộ Công triều Nguyễn cho biết thủy quân đệ trình việc đo đạc ba nơi với 12 hòn đảo, vẽ được ba bức đồ bản riêng và một bức đồ bản vẽ chung về Hoàng Sa...
Sự khẳng định liên tục về chủ quyền Hoàng Sa của thủy quân triều Nguyễn từ năm 1816 đã được tàu thuyền nước ngoài khi đi qua vùng biển này thừa nhận, và dường như họ đều tuân thủ quyền kiểm soát của thuyền quan triều Nguyễn. Bằng chứng là vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1817), thương thuyền từ Ma Cao đến đậu Đà Nẵng đã đem địa đồ quần đảo Hoàng Sa dâng lên triều đình, vua Gia Long đã thưởng 20 lạng bạc (Đại Nam thực lục Chính biên, tập I, trang 950). Không thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam thì không thể có những chuyện như vậy.
Một nhân chứng trực tiếp hết sức quan trọng, hiểu biết sâu sắc các hoạt động trên biển của đội Hoàng Sa và biết rõ việc xác lập chủ quyền Hoàng Sa của triều Gia Long năm 1816 là Jean Baptiste Chaigneau. Ông tình nguyện theo giúp Nguyễn Ánh từ năm 1794. Khi triều Nguyễn thành lập, Chaigneau là một trong hai võ quan Pháp ở lại làm quan lâu dài dưới triều Gia Long. Ông được vua Gia Long cho lấy tên Việt là Nguyễn Văn Thắng, được phong làm Khâm sai, tước Thắng Toán Hầu, cưới vợ Việt Nam là Benette Hồ Thị Huề năm 1802. Mãi đến năm 1819, Chaigneau mới thôi chức về Pháp thăm quê, nhưng đến 1821 lại rời Pháp sang Việt Nam lần nữa, với tư cách Lãnh sự của vua Louis 18 sang giao thiệp với vua Minh Mạng. Năm 1824, Chaigneau rời Huế, đem gia quyến về sinh sống ở Pháp, đến 1832 thì mất.
Trong khoảng những năm 1819-1820 (có lẽ lúc về Pháp thăm quê), Chaigneau đã viết Hồi ký về xứ Đàng Trong, ghi lại chặng đường 25 năm cống hiến cho nhà Nguyễn (1794-1819), trong đó khẳng định: “Vào năm 1816, vị đương kim Hoàng đế (Gia Long) đã sở hữu quần đảo này”. Sự khẳng định chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam từ một người phương Tây trực tiếp tham gia chính sự triều Gia Long rõ ràng hoàn toàn đồng nhất với sự ghi chép của sử quan triều Nguyễn thời đó.
Một nhân chứng khác không kém phần quan trọng là Giám mục Jean Louis Taberd, sống và truyền giáo tại Việt Nam gần như cùng thời gian nhà Nguyễn tăng cường dùng quân đội và bộ máy nhà nước để đo đạc, quản lý Hoàng Sa. Ông sang Việt Nam truyền giáo năm 1820, có thêm tên Việt là cha Từ. Năm 1830, linh mục Taberd được tấn phong giám mục, lãnh trách nhiệm coi sóc địa phận Đàng Trong, hoạt động chủ yếu ở Gia Định. Đầu năm 1833, để tránh bị nhà Nguyễn bắt giam do chủ trương cấm đạo của vua Minh Mạng, ông rời Việt Nam. Ở Việt Nam trong khoảng 13 năm (1820-1833), vị giám mục này biết rất nhiều về chủ trương, hoạt động của triều Nguyễn, trong đó có việc quản lý biển, đảo.
Theo CPV

No comments:

Post a Comment